Tôi cúi xuống, lấy tay vốc nước biển vã vào trán và hai thái dương. Tôi
cảm thấy tươi tỉnh lại. Tận thẳm cùng con người tôi, những tiếng kêu dội
vang, hăm dọa, hỗn độn, nôn nóng – con hổ đang ở trong tôi và đang gầm
thét.
Thình lình tôi nghe rành rọt một giọng nói. Đó là giọng nói của Đức
Phật.
Tôi bắt đầu bước rảo dọc theo mép nước như muốn chạy trốn. Thời gian
gần đây, những lúc đơn độc trong đêm và im lặng bao trùm, tôi thường
nghe thấy tiếng Người – thoạt đầu buồn bã, than vãn như một khúc điếu ca,
rồi trở nên giận dữ, quở trách và như ra lệnh. Nó vùng vẫy trong lồng ngực
tôi như cái thai nhi đến lúc rời khỏi tử cung.
Hẳn đã đến nửa đêm. Mây đen cụm lại trên bầu trời, mấy giọt mưa lớn
rơi trên tay tôi. Nhưng tôi không buồn để ý. Tôi ngập chìm trong một
không khí nóng bỏng; tôi cảm thấy như có một ngọn lửa bập bùng ở cả hai
bên thái dương.
Đã đến lúc rồi, tôi rùng mình nghĩ thầm. Bánh xe Phật giáo đang cuốn
tôi đi, đã đến lúc tôi phải tự giải phóng khỏi cái gánh nặng thần kỳ này. Tôi
vội quay về lều và thắp đèn lên. Khi ánh sáng rọi lên Zorba, mí mắt lão
chớp chớp rồi mở ra nhìn tôi cúi trên tập giấy bắt đầu viết. Lão lậu bậu điều
gì tôi không nghe ra, quay phắt mặt vào vách rồi lại ngủ thiếp đi.
Tôi viết lia lịa, vội vã. Truyện Đức Phật đã sắp sẵn đâu vào đó trong tôi
và tôi có thể thấy nó tuôn ra từ óc tôi như một dải ru-băng xanh đầy ký hiệu
biểu tượng. Nó tuôn ra rất nhanh và tôi cố sống cố chết ghi cho kịp. Tôi
viết, tất cả đã trở nên đơn giản, rất đơn giản. Mà đâu phải tôi viết, tôi chỉ
chép lại thôi. Cả một thế giới đang hiện ra trước mắt tôi, tạo nên bởi tình
thương, hỉ xả và hư không: những lâu đài của Đức Phật, những cung tần
mỹ nữ, cỗ xe bằng vàng, và cuộc gặp gỡ tiền định với lão, bệnh, tử, cuộc bỏ
trốn, cuộc sống khổ hạnh, sự giải thoát lời phát thệ cứu độ chúng sinh. Mặt