cố vẫy vùng. Dập lửa bằng cái chổi lông.
- Có trăng kìa - bà nói rồi chạy ra cửa sổ như để vẩy chào một người bạn
cũ.
- Vâng, có trăng. Bà có định nhảy lên đó không?
- Ông nói gì, ông Joyce?
- Tốt hơn là tôi nên nói rõ những gì tôi nghĩ trước tiên. Nếu tôi thắng con
Mickey vào chiếc xe ngựa cũ, bà có thích đi dạo với tôi một vòng quanh hồ
nước nhà máy xay tĩnh lặng không?
Bà nhìn bóng ông ta ở kính cửa sổ, một bộ mặt tự mãn đượm chút liều lĩnh.
Sau 16 năm lập gia đình, bà đã quên cách ứng xử với những đàn ông khác.
Nhưng cách ứng xử thì không bao giờ thực sự quên được. Giống như đi xe
đạp. Chỉ đi vài vòng là lại đi vững như xưa.
- Tôi thích đi.
Con ngựa trước cái xe bây giờ khác con ngựa kéo cày buổi sáng. Ông Joyce
chỉ cần phất nhẹ dây cương lên mông nó là nó quẹo mạnh đến độ muốn hất
bà Sarah khỏi những khung tròn bên thành xe. Nhưng ông Joyce đã nhảy
lên ghế xà ích, một tay kéo con ngựa đứng chồm trên 2 chân sau, một tay
đỡ bà Sarah nằm lên gối, và họ du hành lên nguyệt điện...
Lúc bà tỉnh dậy sáng hôm sau, ánh nắng chiếu thẳng vào mặt bà. Thường
thì bà xem Gerald còn nằm trong giường không, bằng cách làm ngay một
công việc hàng ngày. Sau cái cựa mình đầu tiên, bà quả quyết rằng ngồi
trong một chiếc xe ngựa cũ các lò xo rỉ sét, phi nước đại, cũng không
chứng tỏ được còn sức thanh xuân. Bà nằm nướng một lúc, suy nghĩ về
điều đó và trỗi dậy với cảm giác mình thật điên khùng, đau đớn, cảm giác
này ám ảnh bà suốt ngày hôm đó, lâu lâu lại nuối tiếc đã dẹp bớt các đồ cũ
linh tinh đi. Bà cũng chẳng nhớ được đã dành ra bao nhiêu phần cuộc đời
để chăm sóc chúng.
Khi ông Gerald về nhà, bà hầu như vẫn như hôm trước lúc tạm biệt ra đi.
Tuy bà có nổi bật hơn vì các món trang sức. Chỉ còn những bông hoa chung
ở phòng khách. Chỉ khi đã ăn tối xong, Gerald đã yên vị đọc sách, ông mới
hỏi:
- Sarah, cái tượng ông triết gia cổ đại Trung Quốc đâu rồi?