này, ông Joyce đang đi rầm rầm, vòng vòng trên gác như một con bò mộng
bị nhốt. Đôi ủng lấm bùn vẫn nằm ở chỗ ông cởi ra, một vũng nước tụ
chung quanh. Một lần nữa bà lại nhìn lên bậu cửa sổ. Chẳng có chai rượu
May ở đó. Đột nhiên bà nhớ lại lời bác sĩ Philips: “sống nhờ uống thuốc
kích thích nhiều năm nay”. Bà mường tượng rõ hình ảnh chua chát của bà
Joyce, cả khi bà ôm ngực cố thở... “uống ngay”…
- Pha cà phê đi, Sarah. Bà lại giở cái trò trêu chọc gì đây?
Chọc người chết trong mồ trước mặt ông. Trêu chọc. Vài ý nghĩ quấy động
bà hơn... một liên tưởng. Joyce coi bà lấy mứt tối hôm qua, cười nhăn nhở
chọc bà
- Cố lần nữa đi bà Sarah, lần trước bà sắp với tới rồi.
Và bà vẫn còn nhớ ông ấy hỏi:
- Chai nào? - Không hỏi bình nào, hộp nào mà chai nào.
Bà cầm ấm lấy đầy nước. Ngưng lại đi, Sarah, đừng trêu chọc nữa. Vì bão,
chờ đợi, bà đã chờ đợi mất nhiều thời gian sống.
Bà giữ thế thủ khi nghe bước chân xuống thang.
- Bà có thể bôi giùm tôi một chút rượu iode, trên bậu cửa sổ ấy. Tôi bị mấy
cái khung chèn cửa cào rách tay.
Bà nhìn kỹ tìm chai i-ốt, để ông ấy không nhận ra tay bà đang run rẩy. Ông
vén một ống tay lên cao rồi nói
- Bôi i-ốt vào chỗ này.
Bàn tay ông ướt và bà còn ngửi thấy mùi đất và mùi ngựa. Quen rồi. Các
thứ về ông đã thành quen rồi, quá quen thuộc. Bà thấy hơi thở của ông ấy
phà vào cổ mình, tiếng suýt xoa của ông ấy là âm thanh duy nhất trong
phòng. Bà bôi xong i-ốt lên vết đứt rồi lui ra. Môi ông cắn sát răng, nhăn
nhó.
- Một nụ hôn sẽ làm đau đớn thành sung sướng.
Sarah đẩy chai i-ốt trên bàn ra xa, cầm lấy đèn pin.
- Tôi về đây.
Ông ta tròn mắt nhìn bà, miệng trề xuống:
- Vậy bà sang đây làm gì?
- Vì tôi cô đơn, tôi thật khùng...