gái mình mãi mãi và giữ em gái mình nguyên vẹn mãi mãi trong ngọn lửa
vĩnh hằng.
Nhưng là người yêu cái chết hơn hết, người chỉ yêu cái chết, yêu và sống
trong một sự tiên liệu có cân nhắc và hầu như đồi truỵ về cái chết như một
kẻ tình nhân yêu và thận trọng kiềm chế trước cái thân xác đợi chờ ưng
thuận thân thuộc dịu dàng không tin được của người mình yêu, đến khi anh
ta không thể chịu đựng lâu hơn không phải sự kiềm chế mà là sự câu thúc
và thế là quăng ném, lao mình, buông thả, chìm đắm. Tự tử ở Cambridge,
Massachusetts, tháng Sáu, 1910, hai tháng sau đám cưới của cô em gái,
trước hết còn đợi hoàn tất niên học dang dở cho bõ khoản học phí đóng
trước, chẳng phải vì anh ta có các tổ phụ Culloden và Carolina và Kentucky
xưa kia mà vì mảnh sót lại của dặm đất Compson cũ đã bán để chi phí cho
đám cưới cô em gái và một năm học Harvard của anh ta, chưa kể cũng cô
em gái ấy và cảnh tượng một ngọn lửa bùng cháy mà đứa em út của anh ta,
khùng bẩm sinh, đã yêu thích.
CANDACE (CADDY). Bạc phận và biết điều đó, chấp nhận số phận không
kiếm tìm cũng không trốn tránh. Yêu anh trai mình bất chấp anh, không
phải chỉ yêu anh mà yêu trong con người anh đấng tiên tri cay đắng và viên
phán quan không lay chuyển được không lung lạc được về điều mà anh ta
cho là danh dự và định mệnh của gia đình, khi anh ta tưởng là mình yêu
nhưng thực ra là thù ghét ở cô em gái mà anh ta xem như là cái bình mỏng
manh thiên định để chứa niềm hãnh diện của gia đình và cái công cụ bẩn
thỉu của nỗi ô nhục gia đình; không những thê, cô yêu anh không chỉ ở
niềm thù hận mà còn ở một sự thật rằng anh không có khả năng yêu, chấp
nhận rằng anh đánh giá cao hơn hết không phải là cô mà là sự trinh tiết của
cô, cái mà chính cô là người gìn giữ và chẳng coi ra gì, cái chỗ nghẽn vật lý
mỏng manh ấy đối với cô chẳng hơn gì một vảy móng tay.
Biết anh trai yêu cái chết hơn hết thảy và không ghen tị, dám (có lẽ do tính