AMAZON.COM PHÁT TRIỂN THẦN TỐC - Trang 77

giúp cho chúng tôi quản trị êm xuôi và tận dụng các bộ nhớ vật lý mà
chúng tôi có,” – Barton-Davis nói. “Điều này trở nên rất quan
trọng. Thời gian này, chúng tôi muốn có khoảng 25MB để nắm lưu
trữ thông tin từ cơ sở dữ liệu thư mục. Chúng tôi có 1000 quyển sách
hay được yêu cầu nhiều nhất – và được quản lý một cách hiệu quả
trong bộ nhớ. Chúng tôi bắt đầu sắp xếp đâu vào đấy những thứ
mà bạn cần cho phần hiển thị của trang Web.”

LẬP TRÌNH HỆ THỐNG HỖ TRỢ

Cũng vào thời điểm đó, Kaphan và Barton-Davis cần phải hình

dung ra là làm thế nào để lập trình những yêu cầu về kho và “văn
phòng sân sau” của Amazon.com. Sau khi xem xét kỹ, họ chọn hệ
thống cơ sở dữ liệu quan hệ của Oracle Corporation bởi họ thấy nó
đáng tin cậy và có chỗ để công ty mở rộng. “Chúng tôi biết sẽ có
nhiều yêu cầu hơn trên hệ thống khi công ty lớn mạnh. Chúng tôi
cần có báo cáo và thông tin khác cho những người sử dụng các cơ sở
dữ liệu. Ít có cơ sở để chúng tôi tin là chúng tôi sẽ tự phát minh lần
nữa,” – Barton-Davis nói. Anh cảm thấy Oracle – và những hệ
thống cơ sở dữ liệu quan hệ khác – có điều không ổn là chúng có
khuynh hướng xem mình là hệ thống toàn diện. Chuyện ấy rất
hiếm khi xảy ra. Bạn phải tích cực vật lộn với chúng trên máy tính.
Cho nên chúng tôi phải cải tiến mạnh mẽ trên nền do Oracle cung
cấp.”

Barton-Davis cho biết cả anh và Kaphan đều không có kiến

thức về cơ sở dữ liệu quan hệ. “Một số dự đoán của chúng tôi tốt
nhưng cũng có khi rất tệ,” – anh thừa nhận. “Công ty hiện có những
thành viên có kiến thức rất tốt về cơ sở dữ liệu quan hệ.”

Vào thời gian Amazon.com lên mạng năm 1995, nó duy trì ít nhất

2GB cơ sở dữ liệu, chứa ít ra hơn một triệu tựa sách. Mỗi khách hàng
trực tuyến được cấp chỉ danh (ID) duy nhất khi anh ta/cô ta vào

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.