dụng. Cách duy nhất để lấy lại thông tin là trở lại CC Motel, in ra
một bản sao của tập tin với tất cả các số thẻ tín dụng, gọi cho công
ty thẻ, ngồi lại với họ và kiểm tra tất cả các số trong danh sách để
chắc chắn rằng mọi giao dịch đều đã thực sự được xử lý. Công
việc nhàm chán này có thể mất cả giờ để giải quyết một vài số tài
khoản. (Tất nhiên, đó là vấn đề của những ngày cũ, khi mà công ty
xử lý việc đặt hàng tương đối thủ công).
Thỉnh thoảng ai đó lỡ viết đè lên tập tin giao dịch đã được gửi cho
công ty tín dụng. Để thu hồi những thông tin này, Amazon.com phải
yêu cầu công ty tín dụng fax lại cho họ một bản sao danh sách các
giao dịch, nhưng danh sách này chỉ chứa bốn số cuối cùng của số
thẻ tín dụng, thành ra phải có người bỏ thời gian ra đối chiếu những
số này với danh sách giao dịch. Những chuyên viên lập trình giải
quyết vấn đề này bằng cách lưu trữ lại tất cả những giao dịch.
Khi Amazon.com bắt đầu bán cổ phiếu ra thị trường vào tháng
Bảy năm 1995, một nửa số khách hàng của họ gọi điện đến và cung
cấp số thẻ tín dụng. Lúc đầu thì công ty mong khách hàng sẽ cung
cấp số thẻ tín dụng qua điện thoại, một ít qua Web, nhưng ngay
trong mấy ngày đầu điều đó đã không diễn ra. Có khách hàng trả
tiền bằng séc, trong khi những người khác thì chọn cách đặt hàng
trực tuyến. Nhóm sau phải nhập năm số cuối của thẻ tín dụng, sau
đó gọi cho Amazon.com để cung cấp những số còn lại.
Thời gian này khách hàng sử dụng các hệ thống mã hóa được cài
sẵn; phổ biến nhất là Netscape Navigator về phía trình duyệt và
Netscape Secure Commerce Server phía máy chủ, hệ thống này làm
cho những tin tặc rất khó thu thập thông tin riêng. “Đó không phải
là điều chúng ta có thể tự làm được mà phải được cài sẵn vào trong
trình duyệt người ta đang sử dụng,” – Barton-Davis nói.
TRỞ NÊN THÂN THIỆN VỚI NGƯỜI DÙNG