tách rời với Internet,” – Barton-Davis nói. “Tôi muốn quả quyết
rằng, ngay cả khi thâm nhập được vào phần còn lại của hệ thống,
bạn cũng sẽ không thể lấy được số thẻ tín dụng. Khi chúng tôi nhận
và lưu số thẻ tín dụng của bạn trên CC Motel, không có cách nào để
lấy chúng ra lại ngoài cách đến thẳng văn phòng, nơi đặt máy. Nghĩ
kỹ lại, không hiểu tại sao lại cần phải an toàn đến thế. Và thực tế
hệ thống dùng hiện nay chắc chắn vận hành khác hẳn. Không có
chuyện các đĩa mềm đi lòng vòng nữa.”
Barton-Davis nhớ lại rằng anh thường gặp những cơn ác mộng
về hệ thống bởi: “Chúng tôi không coi trọng trách nhiệm việc lưu
giữ dữ liệu đó trong tình trạng tốt.” Mặc dù về lý thuyết thì máy
được sao lưu dữ liệu mỗi tối song thỉnh thoảng người ta cũng quên.
“Chúng tôi luôn tự hỏi: ‘Điều gì sẽ xảy ra nếu số thẻ tín dụng vượt
quá sức chứa của đĩa mềm?’ Điều này không được xem trọng. Thế
là tôi cứ nghĩ: ‘Chuyện gì xảy ra nếu chúng tôi mất hết chúng?’”
Hồi đó không ai ở Amazon.com rành rẽ về cách giao dịch qua
các thẻ tín dụng. “Chúng tôi quan niệm sai về cơ bản đối với quy
trình vận hành của những thẻ tín dụng,” – Nicholas Lovejoy, nhân
viên thời kỳ đầu, nhớ lại. “Chúng tôi tạo ra thuật ngữ riêng, nhưng
nó không phản ánh đúng lắm sự hoạt động của mọi việc. Nó có ý
nghĩa với chúng tôi nhưng lại không tương ứng chính xác với cách suy
nghĩ của ngân hàng. Vì thế khi giao dịch với ngân hàng, chúng tôi
đều nghĩ: ‘Trời ạ, những gã này sao ngốc thế! Họ không biết họ
đang nói gì.’ Họ cũng nghĩ về chúng tôi như thế, vì thật ra chúng tôi
mới đúng là những kẻ ngốc, hay là những người lập dị, khi đang
dùng thuật ngữ riêng tự tạo ra để miêu tả mọi thứ.”
Tất nhiên là sai lầm đã xảy ra, đặc biệt là khi việc đọc sai các tài
liệu từ công ty tín dụng, dẫn đến việc các nhân viên Amazon.com
hiểu sai cách xử lý thông tin của các công ty này. Không chỉ một lần
Amazon.com làm mất tập tin gốc lưu khoảng hơn 200 giao dịch tín