Trở lại những ngày mới thành lập, nếu một khách hàng gửi yêu
cầu đến Amazon.com và sau đó cập nhật một yêu cầu khác – chỉ
cần nửa giây sau máy tính của công ty sẽ không nhận ra là nó đã giao
dịch trước đó với máy tính của khách hàng. Vì thế, lấy ví dụ là nếu
khách hàng tìm một quyển sách của John Updike và sau đó muốn
tìm những quyển sách khác cũng của John Updike, những giao thức
của Web không có cách nào để nhận biết được rằng đó là một chuỗi
các sự trao đổi giữa máy tính của khách hàng và máy chủ của
Amazon.com.
Hồi đó rất nhiều công ty kinh doanh trên Internet đang vận
dụng nhiều biện pháp khác nhau nhằm giải quyết vấn đề này
thông qua việc sử dụng tập lệnh giao diện CGI (Common Gateway
Interface). CGI, được gắn vào một liên kết siêu văn bản (hypertext
link), cho phép máy chủ Web giao tiếp với phần khác của phần
mềm trên cùng một máy. Ví dụ, một chương trình CGI có thể lấy dữ
liệu từ một máy chủ Web và chuyển nội dung đó sang một thông điệp
trên e-mail.
Chương trình CGI của Amazon.com sẽ tạo ra một từ định danh với
19 ký số trên địa chỉ của một đối tượng (URL: Uniform Resource
Locator) được tạo ra bởi sự kết hợp ngẫu nhiên và những thông tin
đặc biệt. (URL là địa chỉ Web mà tất cả các trình duyệt nhận ra
được). “Ngay khi bạn nối với hệ thống lần đầu tiên, chúng tôi
hình dung ra cái khóa của phần kế tiếp cho bạn và sau đó về cơ
bản thì chúng tôi sẽ sửa lại những URL của mọi thứ mà bạn sẽ quay
lại. Bất cứ khi nào bạn gửi đến chúng tôi một yêu cầu khác, sẽ có
khóa của phần đó như một phần của URL, vì vậy chúng tôi sẽ theo
dõi được những gì bạn yêu cầu,” – Barton-Davis giải thích. “Về
điểm này, không có gì mới. Nhiều người với một số thủ thuật đã
làm được điều này. Nhiều chức năng giống nhau có thể được thực