Sách viết trong thế chiến vừa rồi và hiện nay dân số trên bốn trăm triệu.
(ND).
[Hai chữ hiện nay trong chú thích này là năm 1970, tức năm cụ Nguyễn Hiến Lê
dịch cuốn Lịch sử văn minh Ấn Độ. Trong sách, các chú thích của tác giả được
ghi dấu hoa thị, các chú thích của người dịch ghi số Ả Rập. Trong ebook này, tôi
chỉ dùng số Ả Rập, riêng các chú thích của người dịch tôi ghi thêm “(ND)” ở
cuối câu. (Goldfish)]
Upanishad: phần thuyết pháp trong các kinh Veda. (theo dt Ần, Hồi).
Açoka: (A Dục) một trong những ông vua đầu tiên theo đạo Phật và làm cho
đạo đó phát triển mạnh, ở thế kỉ thứ III trước công nguyên. (theo dt Ấn, Hồi).
Akbar: (A Cách Bá) một vua gốc Mông Cổ cai trị Ấn, rất có tài, ở thế kỉ
XVI. (theo dt Ấn, Hồi).
Từ thời Megasthène (khoảng -302) tả Ấn Độ do người Hi Lạp biết cho tới
thế kỉ XVIII, người châu Âu vẫn coi Ấn Độ là một xứ kì dị, bí mật. Marco Polo
(1254-1323) chỉ tả mơ hồ một dãi bờ biển phía Tây. Colomb muốn tìm Ấn Độ
mà lại gặp châu Mỹ. Vasco de Gama phải đi vòng châu Phi mới tìm ra Ấn Độ,
thời đó là thời con buôn tham tàn ngấp nghé các món lợi của Ấn Độ. Còn các
nhà bác học thì có vẻ không chú ý tới Ấn Độ. Một nhà truyền giáo Hoà Lan ở
Ấn Độ, Abranham Roger, là một trong những người đầu tiên để ý tới Ấn Độ
trong cuốn Open door to Hidden Heathendom (1651). Dryden viết một kịch
uyển chuyển về Ấn Độ, kịch Aurengzeb (1675), và một tu sĩ Áo, Fra Paolino de
S. Bartolomeo, cho in hai cuốn ngữ pháp sancrit và cuốn Systema Brahmanicum
(1792). Năm 1789, William Jones, một nhà Ấn Độ học danh tiếng dịch kịch
Shakuntala Kalidasa, bản dịch đó năm 1791 được chuyển qua tiếng Đức đã có
tác động mạnh mẽ tới Herder và Goethe, và anh em Schlegel - ảnh hưởng tới
toàn thể phong trào lãng mạn, phong trào này hi vọng tìm lại được ở phương
Đông cái thần bí và huyền diệu cơ hồ đã bị “thế kỉ ánh sáng” [tức thế kỉ XVIII]
và cái tiến bộ khoa học làm tiêu diệt ở phương Tây. Jones làm cho cả thế giới
ngạc nhiên khi tuyên bố rằng tiếng sanscrit có họ hàng hầu hết cùng ngôn ngữ