Không có đoạn nào trong các kinh Veda cho ta ngờ được rằng tác giả đã biết
chữ viết. Mãi tới thế kỉ thứ VIII hoặc thứ IX trước công nguyên, bọn thương
nhân Ấn, có lẽ là người Dravidien mới đem từ Tây Á về một thứ chữ viết
sémitique, tựa như chữ viết phénicien mà hồi đó người Ấn gọi là “chữ của
Brahma”, từ thứ chữ viết đó, sau này họ tạo ra tự mẫu Ấn. Trong nhiều thế kỉ,
cơ hồ họ chỉ dùng chữ viết trong thương mại và hành chánh, không nghĩ cách
dùng để sáng tác văn thơ. “Nhờ những thương nhân chứ không phải nhờ các tu
sĩ mà có văn học”. Người ta có thể ngờ rằng các tôn qui của đạo Phật mãi tới thế
kỉ thứ III trước công nguyên mới chép lại thành văn. Những bi kí, bi minh cổ
nhất của Ấn Độ mà chúng ta được biết là của triều đại vua Açoka. Chúng ta từ
mấy thế kỉ nay quen học bằng mắt, bằng những tài liệu viết hoặc in rồi, chúng ta
khó hiểu được tại sao Ấn Độ đã có chữ viết từ lâu như vậy mà còn giữ hoài
truyến thống cổ là truyền khẩu rồi học thuộc lòng lịch sử và văn học của họ. Các
kinh Veda và các anh hùng ca đều là những bài thơ tràng thiên để nghe chứ
không phải để coi, truyền lại bằng miệng từ thế hệ trước tới thế hệ sau và cứ
mỗi thế hệ lại thêm thắt vào, càng ngày càng lớn lên, dài ra…
Ấn coi thường chữ viết nên chúng ta thiếu tài liệu và biết rất ít về Ấn Độ thời
thượng cổ. Hầu hết tất cả những gì chúng ta biết về thời đó đều nhờ kinh Veda.
Nhưng kinh đó chứa những gì? Chính từ Veda có nghĩa là tri (biết), một kinh
Veda là một cuốn sách về tri thức. Người Ấn dùng từ Veda về số nhiều để trỏ tất
cả cái di sản thiêng liêng của tri thức truyền thống về gốc gác của họ; cũng như
Thánh kinh của chúng ta. Veda là cả một nền văn học chứ không phải chỉ là một
bộ sách. Không có tác phẩm nào hỗn độn hơn; thực là không phân minh chút
nào cả. Thời xưa chắc có nhiều Veda lắm, ngày nay còn lại bốn:
I. Rig-veda (Lệ Câu Vệ Đà), Tri thức về các thánh ca tán tụng,
II. Sama-veda: (Dạ Nhu Vệ Đà), Tri thức về các giai điệu,
III. Yajur-veda, Tri thức về các lời khấn khi tế lễ,