Thức ăn dâng cho một tu sĩ Bà La Môn, tổ tiên ta còn làm sao dùng nó được
nữa?
Chính bọn tu sĩ quỉ quyệt đó đặt ra lệ đó, chúng ích kỉ bảo ta:
“Dâng đồ cúng và sống khổ hạnh đi, từ bỏ hết của cải đi mà cầu nguyện!”.
Nhưng làm gì có thế giới vị lai. Rama này, các hi vọng, và tín ngưỡng của loài
người toàn là hảo cả đấy:
Vậy cứ hưởng lạc trên cõi trần này và từ bỏ ảo tưởng vớ vẩn vô ích đó đi.
*
Khi Phật Thích Ca tới tuổi thành nhân, Ngài thấy ở Bắc Ấn, từ thành thị tới lâm
tuyền đâu đâu cũng vang lên những cuộc tranh luận triết lí mà thuyết vô thần và
thuyết duy vật đắc thắng. Những Upanishad cuối cùng và những sách Phật giáo
cổ nhất chứa đầy những đoạn ám chỉ các tà giáo đó. Có cả một giới ngụy biện
lang thang – bọn Paribbajaka, tức bọn lữ hành – già nửa năm đi khắp làng này
tới làng khác, thành thị này tới thành thị khác để tìm tín đồ hoặc phản kháng
những người chống lại họ. Có vài nhà dạy thuật lí luận để chứng minh bất kì
một điều gì, họ thật xứng đáng với danh hiệu: “Bọn chẻ cái tóc làm tư” hoặc:
“Loài lươn trơn tuột”
, có nhà chứng minh rằng không có Thượng Đế, và đạo
đức hoàn toàn vô ích. Dân chúng bu lại nghe họ thuyết hoặc tranh luận, người ta
còn xây cất cả những phòng rất rộng làm chỗ hội họp cho họ trổ tài và các vị
vua chúa còn tặng giải thưởng cho những triết gia thắng trong các cuộc đấu
khẩu đó nữa. A, cái thời đó thật lạ lùng, đúng là trăm hoa đua nở bên cái dòng tư
tưởng tự do chảy tràn bờ
Chúng ta không có được nhiều tài liệu về các nhà trong phái hoài nghi đó, sở dĩ