sử đâu có thấy năng lực siêu nhiên nào chỉ huy vũ trụ đâu. Hiện tượng nào cũng
tự nhiên hết, chỉ những kẻ ngu ngốc mới cho là tại ma quỉ hay thần linh. Chỉ có
vật chất là thực thể, cơ thể là các nguyên tử, bộ óc chỉ gồm các tế bào suy tư,
chính cơ thể chứ không phải linh hồn cảm thấy nhận, trông thấy, nghe thấy, suy
nghĩ. Có ai bao giờ thấy một linh hồn tách ra khỏi cơ thể không?
Không có
sự bất diệt và không ai có thể tái sinh được. Tôn giáo là một sự sai lầm, mê
hoặc, một thứ bệnh hoặc một thuật lừa gạt, không cần đặt ra giả thuyết có một
Thượng Đế để giảng thế giới hoặc hiểu thế giới. Sở dĩ có những người cho tôn
giáo là cần thiết chỉ vì họ quen tôn giáo quá rồi đến nỗi thấy lạc lõng, bơ vơ.
Luân lí có căn bản tự nhiên, nó dựa trên những mặc ước, và nhu cầu xã hội, chứ
không dựa trên một mệnh lệnh thần linh. Thiên nhiên thản nhiên không phân
biệt thiện ác, không khen thưởng đạo đức, không trừng phạt tội ác và mặt trời
chiếu cho mọi người, cho các tên bịp bợm cũng như cho các vị thánh đức, nếu
thiên nhiên có một cái “đức” nào về phương diện luân lí thì chỉ là cái “đức” phi
đạo đức siêu việt. Không cần phải diệt bản năng cùng thị dục vì những cái đó tự
nhiên sinh ra. Đạo đức là một sự lầm lẫn, mục đích của đời sống là sống, và sự
minh triết chân chính là tìm hạnh phúc.
Triết lí cách mạng của phái Charvaka đó chấm dứt thời đại các Veda và
Upanishad. Nó giảm uy thế của các Bà La Môn và gây một khoảng trống trong
xã hội Ấn Độ, cần có một tôn giáo mới để lấp khoảng trống đó. Nhưng học
thuyết của phái đó đã được tiếp tục và thành công tới nỗi hai tôn giáo tới sau
đáng lí để thay thế đức tin trong các kinh Veda, thì lạ lùng thay, lại đều là tôn
giáo vô thần cả. Cả hai đều thuộc vào phong trào Nastika, hay hư vô, cả hai đều
xuất phát không phải trong tập cấp tu sĩ, mà trong tập cấp chiến sĩ (Kshatriya),
để phản ứng với chủ trương thần học và với thói nghi thức câu nệ của giới tu sĩ.
Hai tôn giáo đó, Jaïnisme (Kì-Na giáo) và Phật giáo mở màn cho một thời đại
mới trong lịch sử Ấn Độ.
*