chúng ta, cho những dục vọng riêng tư nhập vào dục vọng của Đại Ngã thì
những thất vọng, thất bại cá nhân của ta, những đau khổ của ta và ngay cả cái
chết không tránh khỏi được của ta nữa, cũng không làm cho rầu rĩ, chua chát, vì
tất cả những cái đó tan mất trong cái vô biên. Khi chúng ta biết yêu, không phải
cái đời sống cá biệt của ta mà toàn thể nhân loại và toàn thể các sinh vật thì lúc
đó chúng ta mới thấy được sự an tĩnh.
Người ta thường bảo rằng thời đó, nhân loại phát sinh vô số thiên tài, rực rỡ
như ngôi sao. Mahavani và Phật ở Ấn Độ, Lão Tử và Khổng Tử ở Trung Hoa,
Jérémie và Isale thứ nhì ở Judée, các triết gia tiền Socrate ở Hi Lạp và có lẽ
Zarathoustra ở Ba Tư. Sự kiện đó cho chúng ta ngờ rằng những nền văn minh cổ
đó có ít nhiều liên lạc với nhau, chịu ảnh hưởng lẫn nhau mà hiện nay chúng ta
chưa định rõ được.
Tức những “truyền thuyết về Phật ra đời” viết vào khoảng thế kỉ thứ V sau
công nguyên. Một truyền thuyết khác, trong cuốn Lalitavistara đã được Edwin
Arnold viết phỏng ra tiếng Anh nhan đề là The Light of Asia. Võ Đình Cường
phỏng dịch ra tiếng Việt là Ánh Đạo Vàng. (ND).
Uposatha là bốn ngày thiêng trong tháng: ngày sóc, ngày vọng, ngày mùng
tám, và hai mươi ba âm lịch.
[Ngày sóc, ngày vọng có nghĩa là ngày mùng một và ngày rằm. (Goldfish)]
Bodhisattwa có nghĩa là về sau sẽ thành Phật, ở đây trỏ Đức Phật. Phật có
nghĩa là “giác”, một vị sáng suốt hiểu mọi sự lí trong vũ trụ. Phật chỉ là một
trong nhiều tôn danh người ta tặng Ngài. Chính tên tục là Siddharta [Tất Đạt Ta]
tên họ (thị tộc) là Gautama [Cồ Đàm]. Ngài cũng có tên là Shakya-Muni [Thích
Ca Mâu Ni] nghĩa là vị minh triết của bộ lạc Shakya, và tên Tathagata [Như Lai]
nghĩa là “Vị nắm được chân lí”. Nhưng Ngài chưa hề lần nào tự xưng như vậy.
Cây sal: cây sal hay sala tức là cây Shorea robusta, có tác giả viết là cây
ashoka hay simsapa tức là cây vô ưu Saraca indica, còn có tên vàng anh. (Theo
Võ
Quang
Yến,
Cây
cối
trong
đời
Đức
Phật,