trên một hải thuyền từ đảo Maltese. Ông có thể tới nhận con thú, nếu chứng
minh được con thú thuộc quyền sở hữu của ông, và nếu ông ta chịu trả sở
phí về việc bắt giữ con thú. Hãy tới…
“Sao anh lại biết,” tôi hỏi, “người đó là một thủy thủ trên một hải thuyền
từ đảo Maltese tới?”
“Tôi không biết điều đó”, Dupin trả lời. “Tôi cũng không chắc chắn về
điều đó. Đây là vật tôi lượm được ở gần ống thu lôi. Anh có thể nhận thấy
vật này thủy thủ dùng để cột tóc dài. Ít người dùng nó để cột tóc ngoại trừ
thủy thủ và đặc biệt những thủy thủ trên các hải thuyền của đảo Maltese.
Nhưng nếu tôi có lý… Xin hãy suy nghĩ trong giây lát. Người Pháp đó sẽ tự
nhủ: ‘Con thú rất đáng giá. Tại sao ta không tới nhận nó? Cảnh sát đâu có
biết rằng con thú đã giết hại người đàn bà đó. Và người ta lại biết ta. Vậy
nếu ta không tới lãnh con thú, họ sẽ sinh nghi. Ta không muốn ai điều tra về
con thú đó. Bởi thế ta cần tới lãnh con Đười Ươi và sẽ giữ nó ở một nơi
không ai nhìn thấy nó cho tới khi chuyện rắc rối này êm đi.’”
Ngay lúc đó chúng tôi nghe tiếng bước chân trên cầu thang.
“Hãy cầm sẵn khẩu súng”, Dupin nói, “nhưng đừng sử dụng hoặc để lộ ra
trừ phi tôi bảo anh”.
Cửa trước ngôi nhà được để ngỏ, và người khách lạ bước vào nhà không
bấm chuông. Y đã bước lên thang lầu nhiều bước, nhưng rồi y dừng lại. Rồi
chúng tôi nghe bước chân y đi trở xuống. Dupin bước vội ra phía cửa thì
chúng tôi lại nghe bước chân y đi lên. Y không trở xuống một lần nữa, mà
tiến ngay tới cửa phòng chúng tôi.
“Xin mời vào”, Dupin nói, giọng ấm áp đầy cương nghị.
Một người bước vào. Một thủy thủ, người to lớn, vẻ mặt gân guốc. Y cầm
một thanh gỗ nặng, nhưng không mang súng. Y nói với chúng tôi bằng tiếng
Pháp: “Kính chào quý Ông”.
“Xin mời ông bạn ngồi”, Dupin nói. “Tôi đoán chừng ông đến đây về vấn
đề con Đười Ươi. Một con vật rất đẹp và chắc là rất đáng giá. Ông cho rằng
nó được mấy tuổi rồi?”