căn nhà lớn ấy thật chẳng khác mấy với những điều chúng tôi nghĩ về thời
gian vô tận. Suốt năm năm trời sống ở đó, chẳng bao giờ tôi có thể chỉ cho
ai biết cách tìm thấy căn phòng nhỏ mà tôi đang chung sống với mười tám
hay hai mươi thiếu niên khác.
Lớp học được đặt trong gian phòng lớn nhất của căn nhà - và khi đó, tôi
còn nghĩ đó là gian phòng lớn nhất trần gian nữa. Gian phòng đó không rộng
nhưng rất dài và thấp, có những cửa sổ nhọn và trần bằng gỗ nặng. Văn
phòng ông Bransby, trưởng giáo của chúng tôi trong những giờ học, được
đặt ở một góc xa trong gian phòng này. Văn phòng này có một cái cửa dày
và chúng tôi thường cho rằng thà chết còn hơn mở cửa ấy ra khi ông ta
không có mặt ở đấy.
Ở những góc khác là phòng làm việc của những thầy giáo khác. Chúng tôi
cũng khá sợ những phòng này nhưng không sợ bằng phòng của ông trưởng
giáo.
Trong phòng có kê rải rác nhiều bàn ghế cũ đen ngòm dùng đã lâu. Trên
bàn có nhiều sách cũng đã cũ nát. Những cuốn sách ấy đã bị viết lên, bị cắt
xén và đánh dấu nhiều đến nỗi không ai có thể đoán được chúng như thế nào
lúc còn mới. Ở một đầu phòng có đặt một bình chứa nước lớn và ở đầu kia
là một cái đồng hồ kỳ diệu và lớn lạ lùng.
Tôi đã sống từ khi lên mười tới mười lăm tuổi trong những bức tường dày
của ngôi trường cổ ấy. Tuy thế, tôi luôn luôn thấy nó thú vị. Trí óc của một
đứa trẻ đâu cần tới thế giới bên ngoài. Trong ngôi trường yên tĩnh này tôi đã
thấy một nguồn vui trong sáng hơn những nguồn vui về sau này tôi tìm được
trong sự giàu sang phú quý khi tôi là một thanh niên, và trong tội lỗi khi đã
có tuổi.
Tuy vậy, tôi phải tin rằng tôi có khác với đa số con trai khác. Rất ít người
còn nhớ được nhiều về quãng đời niên thiếu của họ. Những ngày thơ ấu của
tôi vẫn hiện ra rõ rệt và rành rành như được khắc bằng vàng. Nhưng đối với
người bên ngoài thì có đáng nhớ gì mấy!
Sáng dậy, tối đi ngủ, học tập, đi tản bộ, ra chơi - với tôi đó là cả một thế
giới. Ôi, những ngày tươi đẹp!