Protheroe đến đúng sáu giờ mười lăm. Không, cô không xem đồng hồ mà
nghe chuông nhà thờ điểm khi vừa đưa ông đại tá vào văn phòng. Cô không
nghe bất cứ tiếng súng nào. Nếu có tiếng súng thì cô phải nghe thấy chứ. À,
tất nhiên cô biết là phải có súng nổ vì quý ông ấy đã bị bắn — nhưng cô
không nghe. Có vậy thôi.
Nhân viên điều tra không hỏi gì thêm. Tôi nhận ra ông ta và đại tá
Melchett đã thống nhất ý kiến với nhau.
Bà Lestrange được triệu đến làm nhân chứng, nhưng có giấy của bác sĩ
Haydock chứng nhận bà ta bệnh nặng không tham dự được.
Chỉ còn một nhân chứng nữa, một bà lão run lập cà lập cập, người mà
theo cách nói của Slack là ‘làm việc nhà’ cho Lawrence Redding.
Bà Archer được đưa cho xem khẩu súng và thừa nhận mình đã nhìn thấy
nó trong phòng khách nhà ông Redding. “Ông ấy để nó ở trên kệ sách.” Bà
ta nhìn thấy nó lần cuối cùng vào ngày xảy ra án mạng. Phải — khi được hỏi
lần nữa, bà hoàn toàn chắc chắn là vào giờ ăn trưa ngày thứ năm — một giờ
kém mười lăm, khi bà ra về thì khẩu súng vẫn còn ở đó.
Tôi nhớ lại những gì viên thanh tra nói và hơi ngạc nhiên. Dù cho bà lão
có mơ hồ đến đâu khi bị ông ta thẩm vấn thì lúc này đây bà ta lại hoàn toàn
quả quyết.
Nhân viên điều tra tóm tắt nội dung vụ án với thái độ khá chắc chắn. Lời
phán quyết hầu như lập tức được đưa ra: Vụ mưu sát do một hay nhiều người
giấu mặt thực hiện.
Khi rời phòng, tôi nhận ra một nhóm thanh niên mặt mày sáng sủa khôn
lanh, nhìn bề ngoài giông giống nhau, trong đó một số đã thường xuyên lảng
vảng trước nhà mục vụ mấy hôm nay. Tôi tìm đường lánh bằng cách quay
vào Blue Boar, may sao gặp ngay tiến sĩ Stone, nhà khảo cổ. Tôi túm lấy
ông ta chẳng cần giữ ý tứ.
“Là đám nhà báo!” tôi nói ngắn gọn. “Ông giúp tôi thoát khỏi nanh vuốt
bọn họ được không?”
“Sao, nhất định rồi mục sư Clement. Mời ông lên lầu với tôi.”