nào! Toàn là lý thuyết với giả định thôi. Thật đáng buồn là chẳng có bà cô
già nào sống dọc theo con đường trước nhà mục vụ, chứ nếu có thì tôi dám
cá hễ xảy ra chuyện gì thì bà ta đã nhìn thấy ngay, mục sư Clement ạ.”
Lời của Thanh tra Slack khiến tôi nhớ đến các lời mời, và tôi cáo từ ông
ta. Đây là dịp hiếm hoi tôi gặp thanh tra lúc ông ta đang vui vẻ.
Người đầu tiên tôi đến thăm là bà Hartnell. Chắc bà ta đã đứng chờ tôi
bên cửa sổ, vì tôi chưa kịp nhấn chuông thì bà đã mở cửa chính và siết chặt
tay tôi rồi đưa tôi bước qua thềm nhà.
“Quý hóa quá! Mời mục sư vào đây cho kín đáo hơn.”
Chúng tôi bước vào một căn phòng nhỏ xíu như cái lồng gà. Bà Hartnell
đóng cửa và ra vẻ tuyệt mật, bà vẫy tay ra hiệu mời tôi ngồi xuống một chiếc
ghế (trong phòng chỉ có ba chiếc). Tôi nhận thấy bà đang hứng thú.
“Tôi chẳng bao giờ thích nói vòng vo,” giọng bà vui vẻ, sau đó giảm bớt
cho phù hợp tình huống. “Trong cái làng này, mọi chuyện lan truyền như thế
nào thì chắc mục sư đã biết.”
“Thật đáng tiếc là tôi có biết.”
“Tôi đồng ý với mục sư. Không ai ghét chuyện ngồi lê đôi mách bằng tôi
đâu. Nhưng mà có chuyện, nên tôi nghĩ phải có nhiệm vụ báo cho thanh tra
cảnh sát biết. Buổi chiều xảy ra án mạng, tôi ghé qua nhà bà Lestrange
nhưng bà ta đi vắng. Tôi chẳng mong người ta cảm ơn mình về việc ấy, đơn
giản là tôi làm nhiệm vụ. Nói chung đời này sao lắm kẻ vô ơn. Tại sao hôm
qua cái bà Baker vô liêm sỉ ấy…”
“Vâng, vâng,” tôi nói mong ngăn chặn tràng đả kích quen thuộc ấy.
“Vâng, thật tệ, tệ quá đi. Nhưng bà đang nói…”
“Bọn tầng lớp dưới chẳng biết ai là bạn tốt,” bà Hartnell nói. “Bao giờ
đến thăm ai tôi cũng ăn nói đúng mực. Không phải vì tôi cần người ta cám
ơn.”
“Bà đã báo ông thanh tra về việc đến nhà bà Lestrange,” tôi nhắc.
“Đúng thế — mà ông ta có cám ơn tôi đâu ạ. Bảo là khi nào cần thì sẽ hỏi
thêm — không nguyên văn câu chữ, nhưng tinh thần là thế. Bây giờ cảnh sát
cũng có loại này loại nọ nhỉ.”