“Là một việc hết sức đơn giản,” bà nói tiếp. “Clara, con hầu nhà tôi, lúc
ấy đang đứng ở cổng nhà — nó bảo ra cổng vài phút cho thoáng đãng. Tôi
phải nói là không đúng thế đâu. Nhiều khả năng là nó đang chờ thằng bán cá
— cái thằng ranh con càn rỡ mặt dày mày dạn cứ ngỡ mình mười bảy tuổi là
bạ đứa con gái nào cũng trêu chòng được. Dù sao thì như tôi đã nói, nó đang
đứng ở cổng thì chợt nghe một tiếng hắt hơi.”
“Vâng,” tôi nói, và chờ nghe thêm.
“Có vậy thôi. Tôi thưa với mục sư rằng con bé ấy nghe một tiếng hắt hơi.
Mà mục sư đừng cho rằng tôi già cả nên lú lẫn nhé, vì đây là Clara nghe
thấy, mà nó chỉ mới mười chín tuổi thôi.”
“Nhưng vì sao cô ấy phải nghe tiếng hắt hơi?” tôi hỏi.
Bà Price Ridley nhìn tôi, lộ rõ vẻ thương hại cho đầu óc ngu muội của tôi.
“Vào ngày xảy ra án mạng, nó nghe thấy tiếng hắt hơi vào thời điểm trong
nhà mục vụ không có ai cả. Chắc chắn kẻ giết người đang nấp trong bụi rậm
chờ cơ hội ra tay. Điều mục sư cần làm là tìm ra một người đang bị cảm
lạnh.”
“Hoặc là một người bị bệnh sốt mùa hè,” tôi gợi ý. “Nhưng thật ra tôi
nghĩ có thể giải mã bí mật này rất dễ dàng. Cô hầu Mary nhà chúng tôi đang
bị nhức đầu sổ mũi. Gần đây quả là cô ấy cứ sụt sịt mãi khiến chúng tôi phát
mệt. Chắc hẳn cô hầu nhà bà đã nghe thấy tiếng hắt hơi của cô ấy.”
“Là tiếng hắt hơi của đàn ông cơ,” bà Price Ridley quả quyết. “Và từ cổng
nhà chúng tôi thì không thể nghe tiếng cô hầu bên nhà mục vụ hắt hơi từ
trong bếp được.”
“Từ bên cổng nhà bà, cũng không thể nghe được tiếng hắt hơi trong
phòng làm việc được,” tôi nói. “Chí ít thì với tôi điều này cũng rất đáng
ngờ.”
“Tên kia có thể đang nấp trong bụi rậm. Chắc chắn khi Clara trở vào thì
hắn mới thừa cơ lẻn vào nhà mục vụ bằng cửa trước.”
“À, tất nhiên điều đó có thể xảy ra,” tôi nói.
Tôi cố không tỏ ra nhỏ nhẹ, nhưng tôi đã thất bại, vì bà Price Ridley trừng
trừng nhìn tôi: