hơn là bàng hoàng sửng sốt mình ạ.”
“Khiếp hãi ư?”
“Phải — nhưng không bộc lộ ra ngoài, mình biết đấy. Chí ít là không
muốn tỏ ra như thế. Nhưng trông bà ấy đầy cảnh giác và đáng ngờ lắm. Em
tự hỏi có phải bà ấy đang nghĩ xem ai giết ông ta không. Bà ấy cứ hỏi đi hỏi
lại là có ai bị tình nghi không.”
“Vậy sao?” tôi trầm ngâm.
“Vâng. Dĩ nhiên Anne là người cực kỳ tự chủ, nhưng có thể thấy bà ta bối
rối kinh khủng. Bối rối nhiều hơn em tưởng, bởi lẽ nói cho cùng thì bà ta có
tận tụy với chồng đến mức ấy đâu! Em đã từng nói bà ấy ghét ông đại tá
lắm, có lẽ vậy.”
“Cái chết đôi khi làm người ta thay đổi cảm xúc,” tôi nói.
“Vâng, em cũng nghĩ vậy.”
Dennis bước vào và hết sức phấn khởi vì đã phát hiện dấu chân cạnh một
luống hoa. Nó chắc chắn cảnh sát đã bỏ sót điều này, điều hóa ra lại trở
thành điểm mấu chốt của bí ẩn.
Tôi trải qua một đêm trằn trọc không yên. Dennis thức giấc và ra khỏi nhà
rất sớm trước giờ’ điểm tâm để ‘nghiên cứu những diễn biến mới nhất’, như
lời cu cậu. Tuy nhiên không phải nó mà lại là Mary mang đến một số tin giật
gân vào buổi sáng.
Chúng tôi vừa ngồi xuống dùng điểm tâm thì cô ta đột nhiên xộc vào
phòng. Má đỏ bừng bừng và mắt long lanh, cô ta báo tin với chúng tôi theo
lối trông trổng thường ngày:
“Biết gì chưa? Thằng bán bánh mì mới kể tui nghe là thằng cha Redding
bị tóm rồi.”
“Bắt Lawrence à?” Griselda ngờ vực kêu lên. “Không thể như vậy được.
Nhất định là do nhầm lẫn ngu xuẩn.”
“Lầm gì mà lầm hả mẹ!” Mary tỏ vẻ hể hả đắc chí. “Thằng cha Redding
đó, tự chả đến nộp mạng mà. Hồi khuya hôm qua chứ đâu. Xông vô đồn,