4. Khuyên nên sống trong cõi trần học đạo
5. Các sách vở nên đọc
1. Thư gởi Sài Dã Ngu
2. Thư phúc đáp Du Huệ Úc, Trần Huệ Sưởng
3. Thư phúc đáp cư sĩ Ngu Tăng
4. Thư phúc đáp cư sĩ Thiệu Huệ Viên
5. Thư gởi cư sĩ Vương Tâm Thiền
---o0o---
LỜI TỰA
Pháp môn Tịnh Ðộ lý cực cao sâu, sự cực giản dị. Do vậy, người thiên tư
thông mẫn, tri kiến cao siêu thường xem Tịnh Ðộ là pháp tu của bọn ngu
phu, ngu phụ, chẳng chịu tu trì. Nào biết đây là pháp môn rốt ráo để mười
phương tam thế hết thảy chư Phật, trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh,
thành thỉ, thành chung. Họ thấy kẻ ngu phu, ngu phụ tu được pháp này bèn
coi thường, sao chẳng xét trong hội Hoa Nghiêm, bậc đã chứng bằng với
Phổ Hiền, bằng với chư Phật, vẫn phải dùng mười đại nguyện vương hồi
hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ngõ hầu viên mãn Phật Quả? Miệt
thị pháp môn Tịnh Ðộ chẳng chịu tu là coi những vị trong hội Hoa Nghiêm
thuộc hạng người gì? Chỗ quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm có đáng
nên tôn trọng hay nên coi thường đây?
[Có thái độ như vậy] không có gì khác hơn là do chưa xét kỹ nguyên do
của từng pháp môn thông thường và đặc biệt, cũng như tự lực, Phật lực, đại,
tiểu, khó, dễ, nên mới đến nỗi như thế. Nếu đã xét kỹ, há chẳng học đòi Hoa
Nghiêm Hải Chúng, nhất trí tiến hành cùng cầu vãng sanh ư? Ấn Quang tôi
từ lúc búi tóc đọc sách, nhiễm ngay phải cái độc bài Phật của Hàn, Âu,
Trình, Chu, may là không có được cái tài như Hàn, Âu, Trình, Chu. Nếu như
có được chút tài như họ, ắt sẽ tự mình lầm, khiến người lầm, thân còn sống
mà đã hãm trong địa ngục A Tỳ mất rồi. Từ năm mười bốn, mười lăm tuổi
về sau, bệnh nặng nhiều năm. Từ đấy chiêm nghiệm khắp xưa nay, xem kỹ
kinh sách, mới hay những thuyết do Hàn, Âu, Trình, Chu lập đó đều là
những tri kiến quẩn quanh ngoài cửa ngõ, tuyệt chẳng đạt đến những sự
huyền áo trong nhà.
Nhược quan
1
được một năm, tôi liền xuất gia làm Tăng, chuyên tu Tịnh
nghiệp. Thề trọn một đời này làm một kẻ tự tu, chẳng lập môn đình, rộng
thâu đồ chúng đến nỗi con cháu đời sau làm Phật pháp bại hoại, kéo cả Ấn
Quang tôi vào trong địa ngục A Tỳ chịu khổ với chúng. Ðến năm Quang Tự
19 (Quý Tỵ - 1893), hòa thượng Hóa Văn chùa Pháp Vũ ở Phổ Ðà Sơn lên