Họ có giấy chứng nhận kết hôn cùng bằng chứng hôn thú, cùng những
lời chúc tụng từ tỉnh trưởng.
“Mà nhân chứng đâu?”
“Nhân chứng nào?” gã tiếp tân ngơ ngác.
“Ôi chết tiệt,” nữ mục sư thốt lên. Cô đã làm lễ cho nhiều đám cưới đến
nỗi cô nhận ngay ra vấn đề của họ.
“Đợi chút,” cô chạy bay đến một cặp đôi lớn tuổi đang đi dạo trên bãi
biển gần đó. Trong khi bà thống đốc tỉnh nhắc rằng bà đang tiến hành đám
cưới dân sự cho một nữ mục sư chửi thề trong vai cô dâu, thì nữ mục sư
đang cố giao tiếp với đôi vợ chồng già từ Nhật Bản. Họ không nói được
tiếng Thụy Điển, Anh, Đức, Pháp, hay bất kỳ loại ngôn ngữ nào khác. Tuy
nhiên họ hiểu rằng nữ mục sư muốn họ đi cùng cô.
“Ông bà có phải là nhân chứng cho cặp đôi này không?” bà tỉnh trưởng
hỏi đôi vợ chồng Nhật Bản đang ngơ ngác nhìn người phụ nữ nói gì đó mà
họ không hiểu.
“Nói hai đi, gã tiếp tân bảo họ (đó là từ tiếng Nhật duy nhất gã biết).
‘
はい,’ một nhân chứng nói. Ông không dám nói khác.
‘
はい,’ bà vợ cũng nói vậy vì lý do tương tự.
“Chúng tôi biết nhau lâu rồi,” nữ mục sư giải thích. Tốn thêm kha khá
thời gian hoàn tất thủ tục giấy tờ và những sáng tạo nhất định từ bà tỉnh
trưởng thì buổi thành hôn mới hoàn tất. Bà thuộc dạng giải quyết vấn đề
bằng cách tạo ra thêm vấn đề. Sau một lúc thì nữ mục sư và gã tiếp tân
cũng đã có trong tay giấy viết tay chứng nhận giờ đây họ chính thức là vợ
chồng.
***
Hết mùa hè, qua mùa thu. Nữ mục sư giờ đang mang bầu bốn tháng.
“Đứa trẻ phúc lợi xã hội đầu tiên đang đến!” gã tiếp tân hào hứng hét
vang khi nghe tin. “Bốn năm đứa nữa thôi là tụi mình có cả doanh nghiệp.
Nếu tận dụng tốt, chỉ cần mua một bộ áo quần cho bọn trẻ. Đứa đầu sẽ
nhường quần áo cho đứa thứ hai, đứa thứ ba, đứa thứ tư...”