và ngay cả chúng cũng không được các bậc phụ huynh khuyến khích thân
thiện với anh chàng.
Tôi lấy làm buồn khi nói rằng anh chàng chẳng bận tâm gì. Anh chàng
hoàn toàn mãn nguyện; và âm thanh của siêu nước sôi trong lòng lò sưởi từ
đó đến mãi mãi về sau còn du dương hơn cả vào những tháng ngày lặng lẽ
trước Bữa Tiệc Bất Ngờ. Anh chàng treo thanh kiếm của mình lủng lẳng
trên bệ lò sưởi. Còn chiếc áo giáp thì anh chàng mắc trên một cái giá trong
gian phòng lớn (cho tới khi anh chàng cho một Viện Bảo Tàng mượn).
Vàng bạc của anh chàng chủ yếu được dùng làm quà - cả những món quà
hữu ích lẫn những món quà vô lý - điều này, ở chừng mực nào đó, lý giải
cho cái cảm tình của các cháu gọi anh chàng bằng cậu kia. Còn cái nhẫn
thần thì anh chàng cất ở một nơi rất bí mật, bởi anh chàng chủ yếu chỉ dùng
đến nó khi có những kẻ đáng ghét tới thăm.
Anh chàng bắt đầu say mê sáng tác thơ và thăm viếng các tiên; dù nhiều
người lắc đầu, lấy tay sờ lên trán mà nói “Tội nghiệp anh chàng Baggins!”
và dù ít người tin những câu chuyện anh chàng kể, Bilbo vẫn cứ vui vẻ cho
tới những ngày cuối đời, mà những ngày ấy thì thật vô cùng dài.
Vào một buổi tối mùa thu sau đó vài năm, Bilbo đang ngồi trong thư phòng
viết hồi ký - anh chàng nghĩ sẽ đặt tên cho nó là “Tới nơi đó và lại trở về,
kỳ nghỉ của một anh chàng hobbit” - thì có tiếng chuông gọi cửa. Đó là
Gandalf cùng một chú lùn; và chú lùn ấy đúng là Balin.