liền được.” Cô đặt tay lên vai anh. “Em biết ta sẽ làm được. Em biết mình
sẽ là một người cha tuyệt vời. Nhưng họ thì không.”
Cô ngắm đứa bé, đặt ngón tay lên bầu má mềm mại của nó. “Tình yêu
thương lớn hơn mọi luật lệ, Tom à. Nếu mình mà báo cáo vụ xuồng dạt thì
giờ đây nó đã bị cho vài trại mồ côi.” Cô đặt bàn tay lên cánh tay anh. “Lời
cầu nguyện của mình cuối cùng cũng được Chúa nghe thấy. Làm sao có thể
vô ơn mà gởi trả con lại được?”
Như cành ghép lập tức bám chặt và đâm trổ trên bụi hồng, tình cảm
người mẹ ở Isabel – thứ động lực và bản năng làm mẹ từng bị lột trần đau
đớn khi nhìn thấy đứa con chết non – giờ đây bám chắc vào đứa bé, một
sinh linh đang thèm hơi mẹ. Nỗi nhớ thương đứa con xấu số và sự heo hút
trên đảo bọc lấy vết ghép đó, hoàn chỉnh sự gắn bó giữa Isabel và Lucy, với
một tốc độ chỉ có tạo hoá mới làm được.
Tối hôm đó khi Tom quay về từ tháp đèn, Isabel ngồi bên lò sưởi từ đầu
thu đến giờ mới châm lần đầu, cho đứa bé bú trên chiếc ghế bập bênh mà
anh đã tự tay đóng bốn năm trước. Cô không thấy anh đã vào nhà, anh
đứng yên đó ngắm cô trong giây lát. Cô xoay xở với đứa bé chỉ bằng bản
năng, cứ như đứa bé là một phần của mình. Anh cố ghìm lại sự ngờ vực
đang gặm nhấm lương tâm. Có lẽ Isabel đúng. Anh là ai mà dám chia rẽ
người đàn bà và đứa bé này?
Trong tay Isabel là cuốn Sách Kinh, sau lần bị sảy thai đầu tiên Isabel
thường hay đọc nhiều hơn trước. Giờ đây cô lặng lẽ đọc phần “Lời dạy đàn
bà”, những lời cầu nguyện cho phụ nữ vừa qua sinh nở. “Và, con trẻ và hoa
trái của lòng mẹ là thứ di sản và quà tặng mà Thiên Chúa ban cho...”