vượng chung.” Trên tờ đơn, dòng chữ “Ngày 16 tháng Chạp 1918” còn
lóng lánh mực ướt.
***
Trong sáu tháng ở Vịnh Byron trên bờ biển New South Wales cùng với
gia đình của hai người giữ đèn, Tom học được những điều sơ đẳng về cuộc
sống ở các trạm hải đăng. Sau đó anh có làm một thời gian ngắn ở
Maatsuyker, hòn đảo hoang phía nam Tasmania, nơi hầu như ngày nào
cũng mưa và mỗi khi trời bão thì đám gà qué lại bị thổi bay ra biển.
Ở hải đăng, Tom Sherbourne có nhiều thời gian để nghĩ về cuộc chiến.
Về những gương mặt, những giọng nói của đồng đội từng sát cánh bên anh,
từng cứu anh bằng kiểu này hay kiểu khác, những lời trăn trối mà anh
chứng kiến, cả những tiếng thều thào sau cuối anh không nghe ra nhưng
vẫn gật đầu theo.
Chân của Tom chưa từng bị đứt rời đến nỗi chỉ còn nối với cơ thể bằng
mấy sợi gân. Anh cũng chưa từng bị thương kiểu ruột xổ ra thành những
búi lươn trơn trượt. Phổi của anh chưa từng bị nung chảy, não chưa từng
nhũn ra vì khí độc. Nhưng có khác gì, vì khi đó anh đã sống trong hình hài
của một người khác, một người đã làm những việc cần phải làm. Anh vẫn
mang chiếc bóng của con người đó, khắc sâu trong tâm khảm.
Anh cố không nghĩ đến: Anh từng thấy nhiều người bị ám ảnh đến nỗi
sống mà như đã chết. Vậy nên anh cứ tiếp tục sống, quanh quẩn bên rìa nỗi
lòng không gọi được thành tên. Khi nằm mộng về những năm đó, anh thấy
mình chỉ là đứa trẻ lên tám đứng giữa khói lửa, trên tay vấy máu. Đứa trẻ
một mình chống lại những tay súng và lưỡi lê, mải lo nghĩ đến chiếc tất
đồng phục đã bị tuột xuống mà không kéo lên được, vì muốn kéo tất lên
phải thả súng xuống, mà nó thì bé bỏng không cầm nổi súng. Mà mẹ thì đi
đâu mất rồi.