Sự tĩnh lặng trong nhà giam đè nặng lên tâm trí Tom, cũng đặc quánh,
chầm chậm chảy như thủy ngân. Đã từ lâu cuộc sống của anh gắn liền với
sóng gió, với nhịp quay đèn. Đột nhiên mọi thứ ngừng lại. Anh thẫn thờ
nghe tiếng chim quất roi
[2]
tuyên bố lãnh địa từ trên ngọn cây bạch đàn karri
cao vút.
[2] Ở đây là chim whipbird: một loài chim đặc trưng của Australia có
tiếng kêu như tiếng roi quất (whip có nghĩa là ngọn roi trong tiếng anh)
(ND)
Sự cô quạnh này cũng quen thuộc, như lúc anh còn đơn chiếc ở Janus.
Anh tự hỏi phải chăng chính anh vừa tưởng tượng ra những năm tháng
sống cùng Isabel và Lucy. Thế rồi anh đút tay vào túi và lấy ra dải ruy-băng
bằng satin màu tím của con bé, nhớ lại nụ cười của nó khi nó nhặt lên đưa
cho anh. “Ba cầm cho Lulu một chút nghe.” Khi Harry Garstone cố tịch thu
dải ruy-băng ở đồn cảnh sát, Knuckey đã nổi cáu. “Thôi đi cậu ơi. Chẳng lẽ
anh ta âm mưu thắt cổ tôi với cậu bằng cái thứ trời ơi đó à!” Tom cuộn dải
ruy-băng lại, cất kỹ.
Anh không thể dung hòa nỗi buồn khi nghĩ đến việc mình vừa làm, với
cảm giác nhẹ lòng trong sâu thẳm khi sự thật đã được nói ra. Hai thứ cảm
giác đối lập, tạo ra một phản ứng kỳ lạ, bị lấn lướt bởi một cảm giác thứ ba
– ý nghĩ rằng anh đã tước lấy đứa con của Isabel. Anh thấy như mình bị
ghim trên móc sắt, thấy tan nát cõi lòng, như Hannah Roennfeldt hẳn từng
cảm thấy; như Isabel đã phải chịu đã nhiều lần và giờ đây lại thêm một lần
nữa. Anh bắt đầu tự hỏi làm sao mình lại gây ra nhiều đau khổ đến vậy,
mình đã làm cái quỷ gì thế này.
Anh cố hiểu cho được – hết thảy tình yêu thương này đã bị bóp méo, bị
phân tán, như ánh sáng đi qua thấu kính đèn.