Không có đàn ông, xứ Mũi dần trống vắng, hoang hốc như khoanh phô
mai Thụy Sĩ đầy lỗ. Nhưng xứ Mũi chưa bao giờ có lệnh cưỡng bách tòng
quân. Chưa ai từng bị bắt đi lính.
Trớ trêu nhất vẫn là những kẻ mà ai cũng gọi là “may mắn”. Họ trở về,
được đám con cái ăn mặc sạch sẽ ra đón, đến con chó cũng được cột nơ
trên cổ để chào mừng. Thường chính con chó sẽ nhận ra sự khác lạ đầu
tiên. Không chỉ là chuyện người trở về bị mất một mắt hay cẳng chân; mà
đúng hơn là một sự vắng mặt khác, vẫn là một kiểu mất tích trong khi làm
nhiệm vụ mặc dù thân xác vẫn còn đó. Billy Wishart ở xưởng cưa Sadler:
vợ hiền, ba con thơ, những tưởng không muốn gì hơn. Wishart bị ngạt khí
trong chiến tranh, giờ đây cầm thìa mà tay run bần bật như máy cắt rơm,
súp bắn tung tóe đầy bàn. Anh ta run tay đến nút áo cũng không cài được,
hằng đêm mặc nguyên áo quần ngoài nằm bên vợ, co quắp người lại, khóc
tu tu. Hay cậu Sam Dowsett hãy còn trẻ, sống sót qua đợt đổ bộ đầu tiên ở
Gallipoli, rồi lại mất cả hai tay và một nửa gương mặt ở Bullecourt. Hằng
đêm bà mẹ góa bụa lại ngồi lo nghĩ rồi đây ai sẽ chăm sóc cho cậu một khi
bà nằm xuống. Con gái xứ này không ai dại gì mà lấy Sam nữa. Những lỗ
thủng trong khoanh phô mai Thụy Sĩ. Hoang hốc mất mát.
Một thời gian khá lâu, người ta vẫn còn bàng hoàng, như đang dự một
trò chơi mà luật chơi bất ngờ thay đổi. Người ta cố xoa dịu mình bằng cái
suy nghĩ rằng con trai xứ Mũi đã không chết vô ích: chúng đã trở thành một
phần của một cuộc chiến chính nghĩa vĩ đại. Rồi có những lúc họ cũng tin
được điều đó, và nuốt xuôi được cả nỗi giận dữ và tiếng thét tuyệt vọng, chỉ
chực gào xé cổ họng mà bật ra như tiếng kêu giận dữ của chim mẹ vừa mất
con.
Sau chiến tranh người ta cố gắng châm chước với những người may mắn
trở về, giờ đây đổ ra rượu chè, gây gổ đánh nhau hoặc không làm nổi việc