Knuckey bỏ qua, rồi triết lý, “Người gác đèn là vị trí rất được tin tưởng,
anh biết đó. Cả nước ta, mà nói cả thế giới cũng được đều trông cậy vô họ:
phải là người tử tế, thật thà, đứng đắn. Ta không thể để họ tự tung tự tác mà
làm giả giấy tờ của nhà nước, rồi ép buộc vợ mình. Chưa kể là không biết
anh ta đã làm chuyện gì với Frank Roennfeldt trước khi chôn cất.” Viên
cảnh sát nhận ra sự hoảng hốt trên gương mặt Bill, nhưng vẫn nói tiếp,
“Không. Phải ngăn chặn ngay những việc như vậy. Vài tuần nữa thẩm phán
sẽ đến đây xử phiên sơ thẩm. Suy từ lời khai của Sherbourne cho tới giờ...
có lẽ anh ta sẽ bị chuyển đến Albany, tòa nơi đó có quyền xử nặng hơn.
Hoặc họ có thể làm thật mạnh tay, đẩy anh ta tới tận Perth. Tay Spragg
đang lăm le tìm manh mối chứng minh rằng Frank vẫn chưa chết khi ra dến
Janus.” Knuckey dốc cạn cốc bia, rồi nói. “Mọi sự đang rất tệ với Tom, Bill
à, tôi chỉ biết nói với anh có vậy thôi.”
***
“Con có thích sách không hả cưng?” Hannah đánh liều hỏi. Cô đã thử
mọi cách để xây chiếc cầu nối giữa mình và con gái. Hồi còn nhỏ cô rất yêu
các câu chuyện, một trong những ký ức ít ỏi về mẹ cô mà cô vẫn còn nhớ
được là được bà đọc cho nghe Câu chuyện về Thỏ Peter
[1]
vào một buổi
chiều nắng đẹp trên bãi cỏ ở dinh thự Bermondsey. Cô còn nhớ chiếc áo
màu xanh nhạt của mẹ, rồi cả mùi thơm – phảng phất hương hoa và rất lạ.
Rồi nụ cười của mẹ nữa... thứ báu vật quý giá nhất. “Đây là từ gì hả con?”
bà hỏi Hannah. “Con biết từ đó mà, đúng không?”
[1] The Tale of Peter Rabbit: một tác phẩm kinh điển của tác giả Beatrix
Potter (1986 – 1943), nhà văn, họa sĩ người Anh chuyên sáng tác cho thiếu
nhi (ND)
“Cà rốt”, Hannah dõng dạc đọc, rất hãnh diện.