Anh quyết định ủng hộ hoàng tử Áo, và vì vậy phải tập trung một lực lượng
hải quân lớn ở Địa Trung Hải.
2) Đế chế Tây Ban Nha mất thuộc địa ở Netherlands, Gelderland
chuyển sang vương quốc mới thuộc Phổ, còn Bỉ chuyển vào tay hoàng đế
(Áo – ND) và như vậy, vùng Netherlands thuộc Tây Ban Nha trở thành
Netherlands thuộc Áo.
3) Tây Ban Nha mất những hòn đảo chính ở Địa Trung Hải; Sardinia
được chuyển cho Áo, Minorca với hải cảng tuyệt vời của nó thì rơi vào tay
Anh, còn Sicily thì rơi vào tay công tước xứ Savoy.
4) Tây Ban Nha còn mất các thuộc địa ở Italy, Milan và Naples được
chuyển cho hoàng đế. Đấy là những kết quả, nói một cách tổng quát, đối với
Tây Ban Nha sau khi diễn ra cuộc chiến giành quyền thừa kế ngai vàng của
nước này.
Pháp, nước ủng hộ cho người chiến thắng, bị kiệt quệ và mất khá nhiều
vùng lãnh thổ. Nước này đã đặt được người thuộc dòng họ hoàng gia của
mình lên ngai vàng của nước láng giềng, nhưng lực lượng trên biển của nó
đã kiệt sức, dân số suy giảm, nền tài chính đổ nát. Khu vực lãnh thổ nằm
trên phần biên giới phía bắc và phía đông bị nước khác chiếm. Pháp không
có quyền sử dụng cảng Dunkirk, trung tâm của cuộc chiến tàu lùng gây
hoảng loạn cho các thương nhân người Anh. Ở Mỹ, việc từ bỏ Nova Scotia
và Newfoundland là bước đầu dẫn đến việc mất toàn bộ Canada sau đó nửa
thế kỷ. Nhưng hiện thời nước này vẫn còn giữ được Cape Breton Island,
cùng với cảng Louisburg, chìa khoá vào vịnh và sông St. Lawrence.
Những vùng lãnh thổ mà Anh chiếm được, cả trong chiến tranh lẫn
bằng hiệp ước, gần bằng những vùng lãnh thổ mà Pháp và Tây Ban Nha bị
mất, tất cả những vùng đó đều giúp cho việc mở rộng và tăng cường sức
mạnh trên biển của nước này. Gibraltar và cảng Mahon ở Địa Trung Hải, và
những khu vực thuộc địa ở Bắc Mỹ đã nói tới bên trên tạo ra những căn cứ
mới cho lực lượng trên biển, cũng như góp phần mở rộng và bảo vệ nền
thương mại của nước này. Vai trò quan trọng thứ hai sau sự bành trướng lực
lượng của Anh là sự suy giảm sức mạnh trên biển của Pháp và Hà Lan, gây