cách của thủủ, và dùng từ “gọn gàng” thay vì “ngăn nắp” giống cách nói
của các thủy thủ.
Sau hai ngày trên biển, Lyra đã khẳng định được đây là cuộc sống dành
cho cô. Cô điều hành con tàu, từ phòng máy đến cầu tàu, tên cô nhanh
chóng được các thủy thủ nhớ đến. Thuyền trưởng Rokeby cho cô ra còi báo
hiệu với một tàu khu trực nhỏ của Hà Lan bằng cách kéo còi hơi nước;
người đầu bếp để cô giúp trộn bột với nho kho; chỉ có lời nói nghiêm khắc
của John Faa là ngăn cô không dám leo lên cột buồm ở mũi tàu để quan sát
đường chân trời.
Suốt cả thời gian con tàu đi về phía bắc, không khí lạnh thêm từng ngày
một. Kho hàng của tàu bị lộn tung để tìm loại vải dầu có thể may quần áo
cho cô. Jerry dạy cô cách khâu, một nghệ thuật cô sẵn sàng học từ ông, dù
ở Jordan cô rất coi thường và thường không thèm quan tâm mỗi khi bà
Lonsdale có ý muốn dạy cô học. Họ cùng nhau khâu một chiếc túi bằng vải
không thấm nước để đựng La bàn vàng, như thế cô có thể đeo quanh bụng,
phòng khi cô bị rơi xuống biền, cô nói thế. La bàn vàng đã có chỗ để an
toàn, cô tung tăng trên lan can nhìn những bụi nước tung trắng xóa trước
mũi tàu và loanh quanh trên boong. Thỉnh thoảng cô vẫn cảm thấy say
sóng, đặc biệt là khi gió thổi mạnh và con thuyền lắc lư ghê gớm trên đỉnh
ngọn sóng màu xanh xám. Lúc đó trách nhiệm của Pantalaimon là làm cô
mất tập trung bằng cách biến thành một con hải âu pêtren và lướt trên sóng.
Như thế cô có thể cảm thấy niềm hân hoan vô bờ bến của nó giữa sóng gió
và quên đi cơn say sóng. Rất nhiều lần nó còn thử biến thành một con cá,
có lần nó còn hòa vào một đàn cá voi trước sự ngạc nhiên và thích thú của
chúng. Lyra đứng run rẩy trên boong trước mũi tàu, cười sung sướng khi
Pantalaimon yêu quý của cô, mỡ màng và khỏe mạnh, nhảy lên trên mặt
nước cùng nửa tá những chú cá heo màu xám đang lắc lư khác. Đó là niềm
vui sướng, nhưng không phải niềm vui sướng thông thường, vì còn có cả sự
đau đớn và sợ hãi trong đó nữa. Nhỡ nó thích được làm một chú cá voi hơn
thích ở bên cạnh cô thì sao?