cho phép cơn thịnh nộ chế ngự mình. Vụ án không có gì là phức tạp, đáng
ra con gấu kia chỉ nên bị thương, không nên bị giết.”
“Nếu không anh ấy đã là vua,” Lyra nói. “Và cháu đã nghe được điều gì
đó về Iofur Raknison từ Giáo sư Palmerian ở Jordan, vì ông ấy đã lên
phương Bắc và gặp ông ta. Ông ấy nói… giá mà cháu nhớ được ông ấy nói
gì… Cháu nghĩ là giáo sư nói ông ta đã lừa đảo để có được ngai vàng hay
sao đó… nhưng bà biết không, Iorek Byrnison từng một lần nói với cháu
rằng một con gấu không thể bị lừa, anh ấy đã cho cháu thấy rằng cháu
không thể lừa nổi anh ấy. Nghe có vẻ như cả hai bọn họ đã bị lừa, anh ấy và
con gấu kia. Có thể chỉ có gấu mới lừa được gấu, có thể loài người không
thể lừa được chúng. Ngoại trừ… những người ở Trollesund, họ đã lừa anh
ấy phải không? Khi họ chuốc cho anh ấy say và ăn cắp bộ áo giáp sắt của
anh ấy?”
“Khi những con gấu xử sự như con người, có thể chúng cũng bị lừa,”
Serafina Pekkala nói. “Khi những con gấu xử sự như những con gấu, có thể
chúng không bị lừa. Thường thì không có con gấu nào có thể uống rượu.
Iorek Byrnison uống để quên đi nỗi hổ thẹn bị đi đày, chính vì thế người ở
Trollesund mới lừa được anh ta.”
“À, đúng rồi.” Lyra nói, gật gật đầu. Cô hài lòng với ý kiến này. Sự
ngưỡng mộ của cô đối với Iorek Byrnison dường như là không có giới hạn,
cô rất sung sướng khi có thể khẳng định được về sự cao quý của nó. “Bà
thật là thông minh,” cô nói. “Nếu bà không nói có lẽ cháu chẳng bao giờ
biết cả. Cháu nghĩ có lẽ bà còn thông minh hơn cả bà Coulter.”
Họ tiếp tục bay, Lyra nhai một mẩu thịt hải cẩu cô tìm thấy trong túi áo.
“Serafina Pekkala,” một lúc sau cô nói, “Bụi là gì vậy? Vì dường như với
cháu, tất cả những rắc rối này đều do Bụi gây ra, mà chẳng có ai nói với
cháu nó là gì cả.”