quạc, rít lên và bay vòng vòng trên đầu, phân chúng bao phủ lấy không sót
một phần nào của tòa nhà với những đốm trắng bẩn thỉu.
Tuy vậy, những con gấu dường như không trông thấy đống bừa bãi đó.
Chúng đi qua những khung cửa tò vò khổng lồ, khắp nơi trên mặt đất phủ
tuyết là những vết bẩn do lũ chim gây ra. Có một khoảnh sân, những bậc
thang cao, những cánh cổng và chỗ nào cũng có những con gấu mặc áo
giáp sắt canh gác và đòi mật khẩu. Bộ áo giáp sắt của chúng bóng bẩy, sáng
loáng, và tất cả đều đeo những chiếc lông vũ trên mũ sắt. Lyra không thể
không so sánh từng con gấu cô thấy được với Iorek Byrnison, và lần nào
Iorek cũng thắng; nó hùng dũng hơn, uyển chuyển hơn, bộ giáp sắt của nó
là giáp sắt thực sự, màu sắt gỉ, nhuốm máu, ghi dấu bởi những trận chiến
chứ không sạch sẽ, trắng men và trang trí cầu kỳ như những con cô nhìn
thấy vào lúc này.
Khi họ đi sâu thêm vào bên trong, nhiệt độ cao thêm, và cũng có thêm
nhiều thứ hơn. Thứ mùi trong cung điện của Iofur Raknison thật ghê tởm:
mỡ hải cẩu ôi, phân, máu, các thứ mùi trộn lẫn với nhau, Lyra đẩy chiếc mũ
trùm đầu lật ra sau cho thoáng, nhưng cô không thể không nhăn mũi. Cô hy
vọng những con gấu không thể đọc được những thái độ của con người. Cứ
mấy mét lại có một giá đỡ bằng sắt đặt ngọn đèn đốt bằng mỡ cá voi, dưới
bóng sáng của ngọn đèn đang cháy đó, thường không phải lúc nào cũng
nhìn rõ nơi cô đang đứng.
Cuối cùng họ dừng lại trước một cánh cửa sắt nặng nề. Một con gấu cạnh
cửa kéo chiếc chốt cửa khổng lồ ra, con gấu trung sĩ đột ngột quay đầu sang
Lyra, nó lấy chân đẩy Lyra qua ngưỡng cửa. Trước khi kịp né người, cô
nghe tiếng cửa chốt lại phía sau lưng.
Trời tối đen như mực, nhưng Pantalaimon biến thành con đom đóm và
tạo thành một vùng sáng lấp lánh xung quanh họ. Họ đang ở trong một xà
lim chật hẹp nơi những bức tường ẩm thấp nước chảy nhỏ giọt với một
chiếc ghế dài bằng đá dùng để đồ. Trong góc xa nhất có một đống giẻ cô