chúng ta về ý nghĩa đối với chúng ta của những khổ đau và niềm vui trần thế, sức
khỏe và bệnh tật, giàu có và nghèo khó, cuộc sống và cái chết, - trong mọi
chuyện như vậy chúng ta hiển nhiên chỉ dựa vào những hình dung hữu hạn và
không thấu triệt của chúng ta, chúng ta gán cho chúng ý nghĩa của chân lí tuyệt
đối với một thái độ tự tin chẳng có gì để biện minh. Có lần, vào những ngày bi
thảm của chiến tranh, Winston Churchill đã nói: “Con người chỉ có khả năng biết
được nghĩa vụ của anh ta là gì; nhưng con người không thể biết được cái gì là
phúc cho anh ta”. Trong ý nghĩa này, chính những kết ấn duy lí khẳng định hay
phủ định của chúng ta về những gì xảy ra trên trần gian, những than vãn của
chúng ta về tính vô nghĩa và không thể dung thứ của tiến trình các biến cố cũng
như của cấu trúc đời sống thế gian, thực chất là biểu hiện của niềm tin mù quáng,
không có cơ sở khách quan - chính đó là niềm tin vào nhận thức bất khả sai lầm
và chính xác của chúng ta. Đối diện với thái độ mù quáng đầy tự tin ấy của con
người, lòng tin cậy “trẻ thơ” không suy xét vào Thượng Đế toàn thiện, được bộc
lộ ra không phải như niềm tin “mù quáng”, mà trái lại, như một sắp xếp duy nhất
đích thực hợp lí. Nó hợp lí bởi vì được suy ra từ bản thân trải nghiệm Vật thiêng
liêng với tính thuyết phục trực tiếp. Cũng như không có thực tại của hiện thực
thường nghiệm nào có thể bác bỏ niềm tin vào bản thân tính hiện thực của Vật
thiêng liêng, nó cũng không thể bác bỏ niềm tin vào tính minh triết mà ta không
thể hiểu rõ của Thượng Đế toàn thiện. Thay cho việc tự tung tự tác lôi cấp bậc tối
cao tuyệt đối ra xét xử một cách bất hợp pháp và phản tự nhiên - giống như đã
xảy ra trong việc đặt “vấn đề biện thần luận” - theo nhận thức của chúng ta, theo
những hình dung của chúng ta về “cái nên có” và “cái không nên có”, về thiện và
ác, chúng ta ý thức về tình trạng thiếu hiểu biết của mình, đặt tin tưởng vào ý chí
tối cao tuyệt đối, bất khả tra vấn đối với chúng ta, mà tính thiêng liêng và tính bất
khả sai lầm của ý chí ấy được khai mở hiển nhiên cho chúng ta trong trải nghiệm
tôn giáo.
Trải nghiệm tôn giáo - ngay cả trong hình thức khiếm khuyết của nó - ìà một
tri thức, mà ngoài lớp hiện hữu ta nhìn thấy và tiếp thu được là hiện thực thường
nghiệm, nó còn có một lớp khác sâu sắc hơn mà ta không thể thấu hiểu được nội
dung - giống như một chiều kích nào đó khác. Ở bên ngoài quan hệ với chiều
kích này chúng ta không thể quan sát được hiện hữu như một toàn thể; nhưng ở
bên ngoài quan sát ấy chúng ta không thể hiểu được và đánh giá được ý nghĩa
chung của nó. Vì vậy, những gì chúng ta trực tiếp hình dung như cái ác hay điều
vô nghĩa, thì từ một góc nhìn khác, tựa như “từ trên trời”, ít nhất cũng có thể hóa
ra là công cụ của Thượng Đế sáng suốt đầy thiện tính. “Đường đi của Ta - không