bằng chính bản thân mình, bằng những sức mạnh và phương tiện vốn cố hữu nơi
chính bản thể của nó; nó có nhu cầu ở những “phúc lợi” nào đó ngoại tại đối với
hiện hữu của nó, ở những của cải như “phương tiện” cho tồn tại của mình; “ở trên
Trái đất”, tức là ở chốn trần gian, con người tự thân mình là kẻ nghèo khó và
buộc phải bám vào những của cải ngoại tại phù du ở thời đại nào cũng có thể bị
lấy mất đi; vì vậy mà cuộc sống của con người luôn luôn đầy mệt mỏi, thiếu thốn,
phải lo toan, đầy bất an. Và đây, tin mừng nói rằng ở một chiều kích hoàn toàn
khác của hiện hữu (được kí hiệu bằng từ ngữ “ở trên trời”) - linh hồn sở hữu kho
báu không hề phù du và không thể bị lấy mất, cho nên thoát khỏi mọi thiếu thốn
và bất an. Trong ánh sáng của hình tượng này, cuối cùng chúng ta bắt đầu ý thức
được ý nghĩa hiện thực chân chính của tin mừng. Đó là tin báo cho biết linh hồn
không bị đóng kín, không cô đơn nên vì thế không bị ở trong tình trạng khép kín
không sao thoát khỏi của thiếu thốn và nghèo khó, - rằng ngược lại, linh hồn ấy ở
trong chiều sâu của mình có một lối đi bí mật - chỉ bị nó lãng quên - để đến được
“kho báu” vĩnh viễn không phù du, chính là đến được sự đầy đủ vô hạn của hiện
hữu thần thánh. Đó chính là tin báo về tính hiện thực theo chiều sâu trong sở hữu
của linh hồn con người, khám phá ra điều này sẽ lập tức phế truất được tình thế bi
thảm thông thường nơi cuộc sống của chúng ta, thực sự cứu độ chúng ta, ban tặng
cho chúng ta an bình và niềm vui của hiện hữu vững chắc, được đảm bảo ở ngôi
nhà thân thuộc.
Rất có thể người ta sẽ bảo rằng trong cách hiểu như thế thì “tin mừng” rao
giảng bởi Đức Kitô chẳng phải là một tin báo gì mới mẻ, chẳng phải là khám phá
được điều gì đó trước đây chưa biết, vì rằng trong ý nghĩa đó tin mừng về thực
chất hẳn trùng khớp với học thuyết của Plato về thế giới lí tưởng, về hiện hữu ở
trên tròi như quê hương đích thực của linh hồn con người. Chỉ dẫn ấy tự thân nó
phải hoàn toàn không gây bối rối. Chỉ có những linh hồn nhút nhát, không tự do -
tức là [những linh hồn mà] tinh thần sự thật của đức Kitô không thấm được vào
bên trong - [chỉ những linh hồn như thế] mới có thể bị mê hoặc rằng có giống
nhau giữa khải huyền của đức Kitô với học thuyết - tức là trải nghiệm tôn giáo -
của “Plato thần thánh”, người được các giáo phụ thời cổ đại xếp vào hàng “những
Kitô hữu thời trước Kitô”. Điều này hẳn có nghĩa là lãng quên đi chân lí cơ bản
của Kitô giáo về Tinh thần vốn thể hiện ra ở đâu mà nó muốn. Sự giống nhau
giữa khải huyền Kitô giáo và quan điểm của Plato về thiên đàng lí tưởng mẫu
mực vĩnh cửu là sự kiện được chứng nhận bởi toàn bộ lịch sử học thuyết của giáo
hội.