ngư ̣a lờ mờ tôi không nhı̀n rõ đươ ̣c tấm bảng treo bên trên cửa ra vô,
nhưng có nhiều người từ trong đó đi ra, vừa đi vừa đẩy những chiếc xe
chất đầy hàng hóa.
<Ở đây chắc là chán ngắt.> Rachel bı̀nh luâ ̣n. <Chẳng có viê ̣c gı̀ khác
để làm ngoài chuyê ̣n giữ bı́ mâ ̣t.>
Hai chiếc xe jeep chở đầy lı́nh cha ̣y bon bon tới. Chúng tôi lui la ̣i tránh
đường, thâ ̣t chẳng giống cách xử sự của loài ngựa chút nào, nhưng chẳng ai
chú ý tới. Những người trên xe jeep thâ ̣m chı́ chẳng thèm liếc chúng tôi
nữa. Ho ̣ đã thấy những con ngựa hoang hàng trăm lần rồi còn gı̀.
Mă ̣t trời buổi chiều tỏa nắng gay gắt. Nóng thiê ̣t là nóng. Con-ngựa-tôi
cứ muốn đi kiếm mô ̣t bóng mát êm di ̣u để xả hơi.
Thâ ̣t là kỳ quă ̣c. Tôi là mô ̣t con người trong lốt ngựa. Tôi đang bước đi
bên những con ngựa bi ̣ những con sên Yeerk rúc vô đầu điều khiển. Và cả
lũ chúng tôi đang tı̀m cách khám phá cái gı̀ đó, nếu như có nó, đang đươ ̣c
canh giữ cẩn mâ ̣t ta ̣i căn cứ này.
Cái gı̀ có thể đươ ̣c cất giấu ta ̣i căn cứ này vâ ̣y? Mô ̣t chiến đấu cơ Con
Rê ̣p của bo ̣n Yeerk chăng? Hay mô ̣t chiến đấu cơ của người Andalite?
Hay mô ̣t phi thuyền nào đó của mô ̣t nòi giống khác?
<Jake, Tobias! Mấy bồ có ngửi thấy mùi gı̀ la ̣ không?> tôi hỏi.
<Mı̀nh ngửi thấy mùi khoai tây chiên…> Jake đáp.
<Hổng phải mùi đó. Hãy ngửi mùi bo ̣n Mươ ̣n xác ngựa kı̀a.>
<Ê… đơ ̣i đã… bồ muốn nói cái mùi đó hả?>