“Vâng, với nó… nhưng không phải với những đứa bé khác. Chao ôi,
cháu đã chăm sóc ba cặp song sinh hồi cháu còn nhỏ, cô Susan à. Khi chúng
khóc, cháu cho chúng ngậm bạc hà với dầu thầu dầu rất tỉnh bơ. Thật lạ
lùng khi nhớ lại cách cháu đối xử thật thoải mái với mấy đứa nhỏ đó và
những trò mè nheo của bọn nó.”
“Ôi, nếu bé Jem mà khóc, tôi chỉ cần đắp khăn nước nóng lên cái bụng
nhỏ xíu của nó là xong,” bà Susan nói.
“Đừng quá nóng nhé, cô biết đấy,” Anne hồi hộp nói. Ôi, có thực sự
khôn ngoan khi bỏ đi không đây?
“Cô đừng có lo, cô bác sĩ ơi. Susan không phải loại đàn bà làm bỏng một
đứa trẻ con đâu mà. Chúa phù hộ thằng bé, nó chả biết khóc là gì.”
Cuối cùng Anne cũng bứt mình ra đi và vẫn tận hưởng được chuyến đi
bộ của mình đến mũi đất, qua những chiếc bóng dài của hoàng hôn. Thuyền
trưởng Jim không có trong phòng khách của ngọn hải đăng, nhưng có một
người đàn ông khác ở đó… một người đàn ông trung niên, đẹp trai, khuôn
cằm nhẵn nhụi, mạnh khỏe, một người Anne không biết mặt. Tuy nhiên, khi
cô ngồi xuống, ông ta bắt đầu nói chuyện với cô với tất cả sự thoải mái của
một người quen lâu ngày. Chẳng có gì sai trái trong những điều ông nói hay
cách nói của ông, nhưng Anne hơi ghét kiểu tự nhiên như ruồi ấy ở một
người hoàn toàn xa lạ. Những câu đáp của cô lạnh lùng, và ít ỏi ở mức lịch
sự tối thiểu. Chẳng chút ngại ngùng, người bạn đồng hành của cô tiếp tục
nói trong vài phút, rồi cáo từ và bỏ đi. Anne dám thề là có một chút tinh
nghịch trong mắt ông và điều đó làm cô bực mình. Ông này là ai cơ chứ?
Có cái gì đó quen quen nơi ông nhưng cô chắc chắn mình chưa từng gặp
ông trước đây.
“Thuyền trưởng Jim, cái ông vừa đi khỏi là ai vậy?” cô hỏi, khi thuyền
trưởng Jim đi vào.
“Marshall Elliott,” thuyền trưởng trả lời.
“Marshall Elliott!” Anne kêu lên. “Ôi, thuyền trưởng Jim… không phải
chứ… ôi, đúng là giọng chú ấy rồi… ôi, thuyền trưởng Jim, cháu không
biết là chú ấy… cháu đối xử với chú ấy khá là thất lễ! Tại sao chú ấy không
nói với cháu? Chắc chắn chú ấy phải thấy là cháu không nhận ra chú ấy
chứ.”