vào tách trà mà nó đang uống và nói rằng đang có một mối nguy hiểm đột
ngột xuất hiện đối với người Do Thái ở Hungary nên nó và Berta cần phải
đi ngay lập tức.
– “Nói với nó là đừng có đi” - mẹ tôi kêu lên. Bố tôi thì chỉ ngồi lặng
thinh, chẳng nói câu gì. “Được rồi, Ervin” - tôi hỏi - “mày nói cho cả nhà
nghe thử xem mày thấy mọi sự đang diễn ra ở cái đất Hungary này như thế
nào nào?”. Rồi nó bắt đầu kể câu chuyện lớn lao về những gì đang xảy ra ở
châu Âu. Nó nói về Đức và Liên Xô.
“Tôi nói với nó: “Có vẻ như mày vừa mới đọc báo. Chắc là mày đã cắm
rễ ở quán cà phê rồi chứ gì”. Nghe tới đây, nó trở nên cáu tiết, vốc một
nhúm đường ở trong cái bát để trên bàn ném vào tôi. Tôi cười to. ‘Không
có đường của mày thì tao cũng đã đủ ngọt ngào rồi’. - tôi nói với nó. Thế
nhưng mẹ tôi đã mất cả đêm mới xoa dịu được cơn giận dữ của nó. Thế là
bây giờ thì hàng xóm láng giềng đều biết rằng Ervin Kovacs và vợ sắp cưới
của nó chuẩn bị rời khỏi Hungary, chạy trốn khỏi nạn tàn sát người Do
Thái. Nhưng ở quán cà phê, thiên hạ lại kháo nhau một câu chuyện khác. Ở
đó, người ta nói rằng Ervin rời khỏi Budapest vì nó hãi chuyện vợ sắp cưới
của nó phát hiện ra sự thật nó ngủ với gái điếm.
Và đây chính là câu chuyện về thằng em của tôi. Sự việc mà chúng ta sẽ
nghe tiếp theo là nó đã đến London với tư cách là dân chạy nạn. Mà chạy
nạn gì mới được cơ chứ? Nạn buôn chuyện.”
Vậy ra là như thế. Tất cả những năm tháng sống ru rú nhui nhủi đằng sau
những cánh cửa đóng kín, sự khép nép, sự phục tùng và nỗi khiếp sợ mà
ông bác Sándor tạo ra trong đầu bố tôi không phải chỉ xuất phát từ việc ông
bác là một tên gangster, một kẻ cho thuê nhà ổ chuột, một người sống bằng
những khoản tiền xấu xa, đồi bại kiếm được mà còn vì ông bác biết được
con sâu trong nồi canh hôn nhân của bố mẹ tôi mà dựa vào đó mới sinh ra
lời nói dối nho nhỏ kia.
– Nhưng em trai bác đúng đấy chứ ạ? - tôi nói, nghĩ về tất cả những thứ
tôi biết đã từng bắt đầu xảy ra tại châu Âu và những gì không hề trở nên tốt
hơn mà ngược lại còn tồi tệ hơn.