Nhưng Claude vẫn nhìn chằm chằm vào cái hình thù trên boong tàu của
cảnh sát.
– Hồi trước, mấy cái thây hay giạt vào một bãi biển gần chỗ anh với em
đang đứng đây, - Claude kể. - Khi bọn anh còn nhỏ, bọn anh hay ăn cắp ví
của mấy người chết rồi hơ khô tiền trước lò sưởi. Đó là nếu trong ví có tiền,
nếu ta gặp may. Ta buộc phải bỏ nhẫn và đồng hồ trả về ví vì ta không thể
tống khứ chúng đi được, đó là trong trường hợp nếu ta không khá say mê
chúng. Thỉnh thoảng, mấy thằng lớn cũng trấn mất của bọn anh rồi chỉ đưa
cho bọn anh có 6 penni. Nhưng chuyện đó chẳng đáng để bận tâm. Còn,
tiền thì lúc nào mình cũng có thể đổi được, đặc biệt là tờ 10 shilling. Ta chỉ
cần nói là đổi tiền cho mẹ mình.
– Eo ôi, khủng khiếp quá!
– Sao cơ? Ý em nói bọn anh là lũ vô lương tâm ấy hả?
– Không, ý em nói là mấy cái xác kia.
– Đúng là đôi khi chúng cũng bốc mùi thật. Em biết không, lũ cá rỉa mất
đôi mắt và hòn dái vì mấy thứ đó mềm mà. Mấy người đó phần đa là những
kẻ chán đời tự vẫn. Thỉnh thoảng mới có mấy tay thủy thủ bị chết đuối.
– Đó là tuổi thơ của anh hả? Đi cướp túi tiền của người chết?
– Anh có bao giờ nói là anh không có một tuổi thơ nghèo khổ, túng
quẫn, chẳng có vườn hoa, chẳng có gì hết đâu. Thôi lại đây, hãy cho anh
một nụ hôn nữa nào, cô gái kiêu kì!
Trời đã sáng bạch. Chiếc thuyền nạo vét nhổ neo quay về Embarkment
và chúng tôi dọn đồ để lên bờ. Trong ánh nắng mặt trời ban mai, những ả
gái trẻ chuyên mồi chài quyến rũ đàn ông trông bơ phờ, bệ rạc; quần áo te
tua, rách rưới còn lớp son phấn bôi trát đêm trước thì nhòe nhoẹt khắp trên
mặt. Giờ này vẫn còn quá sớm nên xe buýt vẫn chưa chạy.
Chúng tôi cuốc bộ hàng dặm cho đến khi tìm được một quán cà phê ban
đêm gần một trạm xe buýt. Thành phố vẫn cửa đóng then cài. Chẳng có
một thứ gì gây khuấy động. Ta có thể đi bộ xuống những vạch vàng ở giữa
tim đường. Ta có thể chạy và gõ lạch cạch cửa của những nhà ga điện