đây. Chỗ tôi đang còn rất ít hàng vì chuẩn bị đóng cửa hẳn mà. Nhưng
không sao, tôi sẽ chọn cho cô một món hời.”
Tôi mỉm cười. Tôi, một người như tất cả mọi người, đang được chào mời
mua một chiếc đầm. Đã từ lâu, tôi chẳng buồn liếc xem mình trông ra sao
mỗi khi lướt qua các cửa sổ của các cửa hàng chứ đừng nói đến chuyện soi
mình trong chiếc gương lớn trong phòng thử đồ với những bóng điện sáng
choang ở phía trên đầu. Mà nếu tôi có quan tâm đi nữa thì hẳn là tôi sẽ
không nhận ra những gì mình thấy trong gương. Người đàn bà sầu thảm với
những vết chân chim quanh mắt, với quần jeans, giày ống và áo khoác da,
với đôi tay nứt nẻ, thô ráp và chiếc cổ tàn tạ đang leo lên từng bậc thang ở
ga tàu điện ngầm kia là ai? Người đàn bà đứng tuổi với mái tóc nhuộm
không được dặm màu ở chân tóc mà ta thấy đang tần ngần trước những tín
hiệu đèn giao thông khi cố băng qua giao lộ Regent-Oxford đông đúc đó là
ai?
Thỉnh thoảng, độ vài tháng hay có lẽ là lâu hơn, tôi cho phép mình được
sống tự do thoải mái, đơn giản chỉ là trôi xa khỏi ý nghĩ thậm chí trông
mình như thế nào, giải phóng bản thân khỏi một cái “tôi” đã từng chăm chú
săm soi ngắm nghía mình trong gương, quên đi bàn tay từng tự tin cầm cây
cọ chuốt mi, quên đi một con người từng quan tâm đến việc mình xuất hiện
như thế nào trước mọi người.
Cũng có vài tình huống tôi tỏ ra thư thái nhẹ nhàng nhưng đó không phải
là con người thật của tôi. Một năm trước đây, chính xác là 13 tháng rưỡi,
chồng tôi mất và sau đó là bố tôi. Quá nhiều sự chết chóc len vào từng chân
tóc, luồn vào từng hốc từng kẽ trong cánh mũi, bám vào từng lớp quần áo.
Một vị mặn đắng đọng lại nơi cuối họng. Bố tôi là một ông già đã rụng
sạch răng, hay vận áo chùng và chiếc quần nhem nhuốc vết dơ. Còn chồng
tôi là một người đàn ông có cánh tay cuồn cuộn cơ bắp, mái tóc vàng hoe
đỏ và cái cổ to khiến anh khó khăn lắm mới tìm ra được áo có cổ vừa vặn
cho mình. Anh mạnh mẽ, tràn trề sức sống và có khiếu hài hước, luôn sẵn
sàng tham gia vào mọi việc mà không cần biết mình có làm được hay