xu lẻ kiếm được vào những cái thùng rồi lôi chúng về nhà bằng xe buýt.
Đấy, chuyện làm ăn kinh doanh của tôi hồi đầu là như thế đấy.”
“ Về sau, tôi có một đội ngũ những người chuyên đi thu tiền thuê nhà.
Tôi luôn luôn thuê người của họ, những người Tây Ấn khác, cũng giống
như họ. Tôi cho họ một công việc khi tất cả mọi cánh cửa đều đóng sầm
vào mặt họ. Tôi nói với họ, tiền thuê nhà là 6 bảng Anh. Anh có thể giữ lại
5 bảng. Cô thấy không, họ sống nhờ vào tiền hoa hồng, họ có một động cơ
làm việc. Tại tòa, tôi nghe rằng họ đã đe dọa những người thuê nhà nếu
những người này không trả tiền đúng hạn. Trong chuyện này, đây là lỗi của
ai? Tôi chưa bao giờ đe dọa một người nào hết. Lẽ ra người ta nên khiếu
nại người của họ chứ không phải tôi.
“Dĩ nhiên khi người Tây Ấn dọn tới ở thì những người thuê nhà da trắng
làm ầm ĩ cả lên. Những người da trắng này chỉ phải trả 1 bảng một tuần mà
vẫn kêu ca phàn nàn, trong khi đó số tiền thuê nhà quá nhỏ mọn nên gần
như chẳng phải đáng để tôi thu tiền của họ. Họ phàn nàn rằng, làm sao tôi
dám để họ thành hàng xóm với những người da đen đó? Họ chơi nhạc suốt
đêm, uống rượu mạnh, tổ chức tiệc tùng. Lại còn nuôi súc vật nữa.”
“Các người không thích điều này sao? tôi bảo. Thế thì chuyển đi chỗ
khác.”
“Giờ thì họ buộc tội tôi là đã ép buộc họ ra khỏi nhà họ, cho lũ dắt mối
và gái điếm vào ở những căn nhà đàng hoàng. Đây là một vấn đề khác. Đến
giờ này thì cô đã biết tôi rồi. Cô biết là tôi luôn luôn làm công việc mối lái
này mà.”
Nhưng còn chuyện về người em trai của bác thì như thế nào? Tôi cắt
ngang lời bác tôi. Việc tái hợp giữa hai anh em diễn ra ra sao?
Bác tôi trông hết sức giận dữ. “Không,” - ông đáp cụt lủn - “chuyện đó
không thành”. Rồi bác tôi vươn người tới trước để tắt chiếc máy thu âm.
Tôi cần phải hiểu rằng buổi trò chuyện của chúng tôi hôm nay tới đây là kết
thúc và đã đến lúc tôi bắt đầu đánh máy lại nội dung.