những bài thơ mới về lũ ngỗng trời vì sẽ không bao giờ có những bài thơ
mới nào nữa. Anh sẽ không bao giờ nhìn thấy mặt đứa con của mình và dĩ
nhiên cả ta cũng vậy.
(Đó là một nỗi đau sâu thẳm hay chỉ là một sự tàn phá mà một người
cảm nhận được khi quay trở về nhà và phát hiện mình bị ăn trộm, ti vi bị
lấy đi còn căn phòng thì bừa bãi rác rưởi?)
Đi mà tìm một việc gì làm đi, mẹ tôi nói thế. Một cô gái có tấm bằng đại
học có thể tìm được bất kỳ công việc gì cô ấy chọn nếu cô ấy thực sự muốn
xem thứ đó là công việc. Đó là vì tấm bằng giống như một chiếc vé đặc biệt
mà ta giơ ra cho những người có quyền cao nhất. Và, ngay lập tức, khi vừa
trông thấy nó, họ đã biết ta được phép vào trong. Suy nghĩ của mẹ tôi là
như vậy đấy. Một người có tấm bằng tốt nghiệp (đặc biệt là tốt nghiệp Đại
học York), một người rất am hiểu về Charles Dickens, luôn được xếp vào
bậc cao nhất của ngành nghề lao động. Mẹ tôi không biết chính xác những
cơ hội việc làm nào đang sẵn có nhưng bà tin chắc rằng bất kể chúng là gì
thì chúng vẫn là cơ hội của tôi, dành cho tôi chọn lựa. Chẳng qua là chính
cái tính ngang ngạnh bướng bỉnh của riêng tôi đã cản trở tôi tìm một công
việc mà thôi.
Hai tuần một lần, tôi đến thư viện trên phố Marylebone để đọc các trang
tuyển lao động đăng trên tờ Times rồi viết vào sổ tay của mình địa chỉ
những chỗ mà tôi nghĩ mình có thể nộp đơn vào. Tôi gửi đến đó lý lịch
trích ngang của mình với mục kinh nghiệm việc làm để trống. Tôi chưa bao
giờ có một công việc gì thuộc bất cứ một hình thức nào. Tôi gửi hồ sơ đăng
ký làm người nghiên cứu tại hãng tin BBC, làm trợ lý biên tập cho một tạp
chí văn học, làm người quảng cáo sách cho nhà xuất bản Faber & Faber.
Tôi thậm chí chẳng thể xin được một cuộc phỏng vấn.
Một ngày, tôi nuốt cục tự trọng của mình xuống, nộp đơn xin làm một
chân bán bưu thiếp tại cửa hàng ở National Portrait Gallery
. Thư xin
việc của tôi bị trả lại.
Hết sức giận dữ, tôi gọi điện thoại cho họ. “Sao các anh thậm chí còn
không xem đơn xin việc bán hàng của tôi?” - tôi hỏi - “Tôi biết mấy tấm