“Anh biết không? Em dạy anh là tiếng Nhật giọng Osaka chứ không phải
giọng Tokyo.”
“Vậy à? Anh hiểu rồi. Vậy thứ anh dạy em coi như là tiếng Đài giọng Đài
Loan.”
“Em nói thật đấy ne. Cho nên anh phải nhớ mình đang học tiếng Nhật giọng
Osaka đấy!”
Ameko dặn dò với vẻ rất nghiêm túc, dường như cho rằng đây là chuyện
không thể làm qua loa được.
Thậm chí còn bảo với tôi, người Osaka nói cám ơn là O-Ki-Ni chứ không
phải A-Ri-Ga-Do.
Thật ra chỉ cần có người Nhật Bản nào nghe hiểu thứ tiếng Nhật mà tôi nói
tôi đã cười thầm trong bụng rồi, còn quan tâm gì tới giọng điệu!
Khi làm thầy dạy Ameko lại là một việc rất thú vị, bởi nàng thường hỏi
những câu rất khó truyền đạt.
“Thái-san, trái vải là cái gì?”Ameko biết Dương quý phi thích ăn vải nhất,
bèn hỏi tôi.
“Một loại hoa quả.” Không thì tôi còn nói được cái gì?
“Trông thế nào? Tiếng Anh gọi là gì?”
“Giờ không phải mùa vải, không cách nào kiếm cho em ăn thử được. Còn
tiếng Anh hả, có thể gọi là milkchicken.”
“Milkchicken?”
“Có em gà ấy!”
Tôi buồn cười quá, bất kể sắc mặt mịt mờ của Ameko, tự đắc cất tiếng cười
lớn.
(Milk chicken = Sữa gà =
奶雞 (nai ji)
Quả vải =
荔枝 (li zhi)
Người Đài Loan khi phát âm
荔枝 (li zhi) thì thành ra 奶雞 (nai ji) )
“Vậy ‘khứ thế’ thì sao?”
“Khứ thế nghĩa là đã chết.”
“Không không, ý em nói là ‘khứ thế’ này này...” Ameko viết lên giấy.