tay chồng, khuỵu xuống. Những người đàn ông, mặt tái xanh, cà vát xổ ra
có vẻ như vừa đánh đấm nhau.
- Những bức trướng còn kia ! - Có người nào đó kêu lên.
Người ta rất ngạc nhiên như chính sự phải biến mất của các bức trướng
ấy là đương nhiên do cuộc phiêu lưu mạo hiểm và chỉ có cách giải thích
như thế mới chấp nhận dược.
Nhưng không có gì suy suyển cả. Mấy bức trướng đóng giá treo trên
tường vẫn còn thấy ở đấy. Và dù tiếng ồn ào vang động trong toàn bộ toà
nhà, dù bóng tối bao phủ khắp nơi, những viên thanh tra không nhìn thấy ai
vào, cũng không nhìn thấy ai định len lỏi vào.
Ông đại tá nói:
- Vả lại chỉ có các cửa sổ hành lang là có thiết bị chuông và các thiết bị
ấy chỉ riêng có tôi là biết máy móc, tôi không cho chúng hoạt động được.
Người ta cười ầm ĩ về hiệu báo động, nhưng người ta cười một cách vu
vơ và với một sự hổ thẹn chắc chắn như mỗi người cảm thấy sự phi lý trong
việc điều khiển của chính ông ta. Rồi người ta chỉ có thể nhanh chóng rời
khỏi ngôi nhà ấy mà dù sao người ta cùng đã thở một bầu không khí lo âu
và kinh hoàng.
Sau khi ông đại tá săn sóc bà Cdith và đặt bà vào tay những người phục
vụ phòng thì hai nhà báo còn ở lại gặp đại tá. Cả ba người cùng với các
thám từ nghiệp dư tiến hành một cuộc điều tra mà không tìm được một chi
tiết nào bổ ích. Rồi ông đại tá mở nút một chai sâm banh, do đó qua một
giờ khuya - chính xác là hai giờ bốn lăm phút thì hai nhà báo ra về; ông đại
tá cùng trở về phòng riêng của mình, còn các cảnh sát điều tra thì rút về
phòng ở tầng trệt dành cho họ. Lần lượt họ đi canh gác, trước tiên là gác ở
chỗ phải thức, rồi đi tuần trong vườn và leo lên đến tận hành lang,
Quân lệnh này thực hiện đúng giờ, trừ thời gian từ năm giờ đến bảy giờ
sáng phải ngừng cho giấc ngủ thì họ không phải đi tuần nữa. Nhưng bên
ngoài, trời đã sáng bạch. Vả lại nếu có một tiếng chuông reo nhỏ thì họ có
bị đánh thức không ?
Tuy nhiên đến bảy giờ hai mươi phút thì một người trong số họ mở cửa
hành lang và đẩy cánh cửa ra thì nhận thấy mười hai bức trướng đã biến