rập cùng đi nhảy vào vật ngã cháu, bịt mắt và dẫn cháu đi bảy ngày bảy đêm
theo đường vắng đến một bãi biển có chiếc thuyền buồm nhổ neo đi ngay.
Những người đó là ai, bắt cóc cháu làm gì, không có dấu hiệu nào để biết
cả. Họ nhốt cháu vào một buồng hẹp có cửa song sắt chữ thập. Mỗi buổi ba
chiếc bánh, một cà mèn nước đầy, một chai rượu và lấy đi phần thừa hôm
trước cháu để lại.
Thỉnh thoảng vào ban đêm chiếc du thuyền dừng lại, tiếng ca nô đi vào
một hải cảng nào đấy có lẽ để chở thực phẩm về. Và người ta lại đi, thong
dong không hấp tấp. Đôi khi đứng trên ghế nhìn qua cửa sổ cháu thấy bờ
biển nhưng không rõ ràng nên không xác định được vị trí.
Và cứ thế hàng mấy tuần liền. Một buổi sáng tuần thứ chín thấy cánh cửa
ngăn không khóa, cháu đẩy ra sang buồng bên cạnh lúc đó không có ai.
Cháu cố gắng rút được một lưỡi cưa nhỏ chỗ nhà vệ sinh.
Hai tuần sau do kiên trì cháu cưa được những thanh sắt ở cửa sổ và cháu
có thể trốn qua chỗ đó được nhưng sợ chóng mệt lúc bơi cháu phải chọn lúc
chiếc du thuyền không quá xa đất liền. Đến hôm kia đứng rình chỗ cửa ngăn
cháu phân biệt được bờ biển và lúc mặt trời lặn cháu ngạc nhiên thấy bóng
lâu đài Sarzeau với những tháp nhọn và vọng lâu. Phải chăng đây là giới hạn
cuộc hành trình bí ẩn của cháu?
Suốt đêm thuyền ở ngoài khơi, cả ngày hôm qua cũng vậy. Sáng nay
thuyền lại gần bờ với khoảng cách thuận lợi, chỉ qua giữa những núi đá mà
phía sau đó có thể bơi an toàn. Ngay giữa phút cháu sắp trốn đi, một lần nữa
cháu thấy chiếc cửa thông tưởng là đóng lại tự mở ra đập vào bức ngăn.
Cháu tò mò lại đó, ở tầm tay cháu có một cái tủ nhỏ; cháu mở được, tay sờ
vào tình cờ nắm được một tập giấy má.
Đó là những bức thư chỉ thị cho bọn cướp cầm tù cháu. Một tiếng sau khi
cháu trèo qua cửa sổ chuồi người xuống biển, cháu rõ cả: lý do bắt cóc cháu,
những cách thức đã dùng, mục đích theo đuổi, âm mưu khả ố chống quận
công Sarzeau và con gái đã ba tháng nay. Không may đã quá chậm. Để tàu
bè không bắt gặp, cháu phải nấp vào lỗ hổng một tảng đá và trưa mới bơi