sáng rõ và nếu có chuông báo động thì họ đã thức dậy ngay rồi.
Tuy thế, lúc bảy giờ hai mươi phút, một trong bọn họ mở cửa phòng trưng
bày, đẩy cửa sổ thì mười hai tấm thảm đã mất!
Sau đó người ta trách anh này loay hoay điều tra xem xét mà không kịp
thời báo với đại tá và điện cho cảnh sát. Chậm trễ đó có làm trở ngại gì cho
cảnh sát không?
Đến tám giờ ba mươi phút đại tá mới được báo tin. Ông đã bận xong quần
áo, sắp sửa đi ra. Tin đó không làm ông xúc động chút nào hay ít nhất là ông
tự kìm chế được. Nhưng cố gắng đó có thể là quá sức vì đột nhiên ông ngã
xuống chiếc ghế dài, tỏ ra quá thất vọng hồi lâu, khó tưởng tượng được ở
một con người bề ngoài kiên quyết như vậy.
Bình tĩnh lại, tự chủ bản thân, ông vào phòng trưng bày xem xét những
bức tường, trần nhà rồi ngồi vào bàn viết nhanh bức thư cho vào phong bì
đóng dấu. Ông nói với mấy viên thanh tra:
“Cầm lấy, tôi vội.. một cuộc họp gấp… Đây là thư tôi gửi ông Cảnh sát
trưởng.”
Thấy họ nhìn kỹ ông, ông nói thêm:
“Đây là ý kiến tôi gợi lên với ông Cảnh sát trưởng… tôi có một nghi ngờ
để ông ấy biết. Riêng tôi, tôi sẽ bắt tay vào việc.”
Ông vừa đi vừa chạy với những cử chỉ như bị kích động. Mấy phút sau,
Cảnh sát trưởng đến, họ đưa thư, chỉ có những chữ sau:
Mong vợ yêu quý của tôi tha thứ cho về những nỗi buồn tôi gây ra cho
em. Cho đến phút chót, tên em vẫn trên môi tôi.
Như vậy là sau đêm thần kinh bị kích thích mạnh, trong chốc lát điên
cuồng đại tá Sparmiento chạy đi tự vẫn. Ông ấy có can đảm làm việc đó
không, hay đến phút chót lý trí giữ ông lại?
Người ta báo tin cho bà vợ. Trong lúc thám tử đi tìm kiếm, cố gắng dò ra
dấu vết đại tá thì bà chờ đợi, phấp phỏng kinh hoàng. Đến chiều có điện