Hầu như tất cả đều đang đóng kín mít để tránh gió lùa. Lác đác có mấy căn
đang mở thì cũng đã chật ních người, không dưới một chục con người đang
chen chúc nhau trong túp lều chật hẹp đó.
Cái loa treo trên hàng rào với âm lượng to quá mức cần thiết, đang gọi
tên ai đó. “Mabel Hawkins, đến cổng C trình diện ngay lập tức. Mabel
Hawkins, cổng C.”
Chỗ duy nhất không có người là cái khoảng trống rộng khoảng 1 mét
rưỡi ngay sát cạnh hàng rào. Darla kéo tôi đi ra đó. Tôi ngần ngừ hỏi “Cậu
có nghĩ là nó an toàn không? Nhỡ hàng rào có điện thì sao?”
“Không sao đâu.” Cô ấy trả lời. “Cậu không thể truyền điện trực tiếp lên
hàng rào mắt cáo. Nếu cái này có điện thật thì phải nhìn thấy dây diện và
vật cách điện cơ.” Darla giơ tay chạm vào hàng rào để chứng minh luận
điểm của mình. Sau đó cô ấy quay ra mở balô của tôi xem còn sót lại được
những gì.
Bọn họ đã lấy đi hầu hết mọi thứ: ván trượt, thức ăn, dây thừng, dao và
rìu, chỉ để lại cho chúng tôi ít quần áo, chăn, tấm vải dầu, chai nước, chảo
rán và vài que diêm.
Darla tức quá, cầm lấy cái chảo rán ném xuống đất. “ Chúa ơi!” Cô ấy
hét lên đầy phẫn nộ. “Thế này thì bọn chúng lấy đi hết mọi thứ còn gì.”
Một bên má của cô ấy bầm tím và sưng vù. Tôi giơ tay chạm nhẹ lên đó
chỉ hi vọng bọn lính không làm gãy cái xương nào của cô ấy. “Có đau
không?” Tôi hỏi.
“Thịt lợn, lúa mì, dao, rìu. Bọn chúng cần mấy cái đó làm gì?”
“Mình không biết.” Có vẻ như xương gò má của cô ấy không làm sao,
nhưng tôi không dám nói chắc.