“Ta lúc đấy… cầm lá thư kia đúng là vui buồn lẫn lộn. Bán tính bán
nghi, lòng ta thầm ảo tưởng lá thư nói thật, ta không có cách nào điều tra ra
người gửi thư là ai, vì vậy ta trở về Tiêu Dao Môn tìm sư phụ hỏi cho rõ
ràng, nhưng ta vừa về đến chân núi đã gặp sư phụ và các vị sư thúc, biết
muội và Giang Thần đến Kim Ba Cung. Ta liền theo sư phụ đến nơi này, ta
cũng mong có thể đến để gặp Mộ Dung Cung chủ, ta muốn tự mình hỏi bà
ấy, rốt cuộc ta và muội có phải huynh muội không, không nhận được câu
trả lời từ bà ấy, ta không thể chết lòng.”
Ta quay đầu đi, không dám nhìn hắn nữa. Biết hắn mấy năm, đây là
lần đầu tiên hắn nói với ta nhiều như thế, thái độ chân thành mà mềm
mỏng. Hỏi sao hắn đến đây, hỏi sao hắn tiều tụy, thì ra hắn cũng đã biết tất
cả.
Hắn vì một tin tức mà hy vọng xa vời, vì một lá thư không rõ tung tích
bôn ba ngàn dặm, quyết không buông tha dù chỉ là một cơ hội mong manh.
Ta vừa khổ sở vừa cảm động, nhưng lấn át cả sự khổ sở cảm động là tâm
trạg bất đắc dĩ và buông xuôi. Cho dù ta không phải con gái của Vân Tri
Phi. Với ân oán giữa mẫu thân và nhà họ Vân, ta và hắn hoàn toàn không
có cơ hội, Vân Tri Thị quyết không đồng ý để ta và hắn đến với nhau, chưa
nói đến chuyện có thể khiến mẫu thân đau lòng.
Từng đợt sóng xô bờ, như chập chùng tâm sự. Ta chậm rãi đứng lên,
nhìn vầng trăng nơi chân trời xa xăm, lòng thầm tỉnh táo, kết cục dành cho
ta và hắn, chỉ có “Vầng trăng mọc ở biển khơi, Cùng chung một lúc góc
trời soi chung”. (Vọng Nguyệt Hoài Viễn – Thịnh Đường – người dịch:
Nguyễn Hữu Bông)
Vân Châu nhìn ta chăm chăm, “Tiểu Mạt, tại sao muội không nói gì?”
Biết nói gì? Có nói gì cũng là vô vọng, không thay đổi được gì. Lòng
hắn một mực hy vọng, tâm sự chân thành, càng khiến ta không nói được lời
nào, chỉ biết chôn giấu nỗi lòng.