Tuy nhiên sau đó cả ba chúng tôi đều ước gì mình đã dừng lại ở Mũi
Penton. Vào lúc sáng sớm thì ba hay bốn dặm ngược dòng là chuyện vặt,
nhưng đến cuối một ngày dài thì công việc chèo thuyền cũng khá nặng
nhọc. Suốt mấy dặm cuối ta chẳng còn hứng thú gì với cảnh trí xung quanh.
Ta không tán gẫu và cười đùa. Đi có nửa dặm mà ta cứ ngỡ như phải đến
hai dặm. Ta khó mà tin được mình mới chỉ đi được đến đây thôi, và ta tin
chắc bản đồ hẳn đã sai rồi; và khi đã lê đi được một quãng đường theo ta ít
nhất cũng đến mười dặm ấy thế mà cửa sông vẫn chẳng thấy đâu, ta bắt đầu
lo sợ một cách nghiêm túc rằng ai đó hẳn là đã xoáy cái cửa sông và chạy
biến đi với nó rồi.
Tôi vẫn còn nhớ có lần mình đã bối rối khủng khiếp khi đi trên sông
(theo nghĩa bóng bẩy, ý tôi là thế). Lúc đó tôi đi chơi với một cô tiểu thư -
họ hàng bên đằng mẹ tôi - và chúng tôi đang chèo thuyền xuống Goring.
Trời đã khá tối, và chúng tôi rất muốn về nhà rồi, ít nhất thì cô nàng cũng
muốn thế. Khi chúng tôi đến cửa sông Benson thì đã sáu rưỡi tối, bóng tối
đang dần buông và cô gái bắt đầu kích động. Cô nàng bảo mình phải có mặt
ở nhà vào bữa tối. Tôi bảo cô rằng vụ đó tôi cũng muốn tham gia; và tôi rút
ra tấm bản đồ vẫn mang theo người để xem chính xác còn bao xa. Tôi thấy
rằng đến cửa sông tiếp theo - Wallingford - chỉ còn độ một dặm rưỡi và từ
đó đến Cleeve là năm dặm.
“Ôi, ổn cả!” tôi nói. “Chúng ta sẽ qua cửa sông tiếp theo trước bảy giờ
và rồi chỉ còn một cửa sông nữa thôi,” và tôi yên chí chèo thuyền đi từ từ.
Chúng tôi đi qua cây cầu và ngay sau đó tôi hỏi xem cô nàng có nhìn
thấy cửa sông không. Cô ta nói không, cô chẳng nhìn thấy cái cửa sông nào
cả; và tôi bảo, “Ồ!” rồi tiếp tục chèo. Năm phút nữa trôi qua và tôi lại bảo
cô nhìn xem.
“Không,” cô nàng bảo; “tôi chẳng thấy bóng dáng cái cửa sông nào cả.”
“Cô… cô có chắc là khi nhìn thấy cô sẽ biết đấy là một cái cửa sông
không?” tôi ngần ngừ hỏi, không muốn xúc phạm cô.