“Cái kia chứ còn gì nữa!” George nói, nhìn về hướng Tây.
Harris và tôi dõi theo ánh mắt trân trối của hắn và nhìn thấy, đang tiến
về phía chúng tôi trong dòng chảy lờ đờ, là một con cẩu. Đó là một trong
những con cẩu lặng lẽ nhất và thanh thản nhất tôi từng gặp. Tôi chưa bao
giờ thấy một con cẩu nào lại có vẻ hài lòng hơn, ung dung hơn thế. Nó đang
bơi ngửa đầy mơ màng với bốn cái cẳng chổng thẳng lên trời. Đó là cái mà
tôi gọi là một con chó ngon lành với bộ ngực nở nang. Nó cứ thế tiến về
phía trước, thanh thản, đường hoàng và bình tĩnh, cho đến khi nó đến sát
bên thuyền chúng tôi và ở đó, giữa đám lau lách, nó dừng lại và ngồi một
cách thoải mái để nghỉ đêm.
George nói hắn không muốn tí trà nào nữa và dốc cạn tách trà của hắn
xuống sông, Harris cũng không thấy khát và làm y hệt. Tôi thì đã uống
được nửa tách rồi, nhưng tôi ước gì mình chưa làm vậy.
Tôi hỏi George hắn nghĩ liệu tôi có nguy cơ bị bệnh tả không.
Hắn nói: “Ồ không đâu,” hắn nghĩ quả thật rất nhiều khả năng tôi thoát
được bệnh đó. Dù sao thì rồi nửa tháng nữa tôi sẽ biết mình có mắc hay
không thôi.
Chúng tôi đi từ đó đến Wargrave. Đó là một con đường tắt dẫn ra bờ
phải phía trên cửa sông Marsh nửa dặm, và khá bõ công đi tắt vì đó là một
con kênh nhỏ xinh xắn rợp mát, ngoài ra thì đi thế rút ngắn được đến nửa
dặm số đường.
Dĩ nhiên lối vào của con kênh rải rác nào cọc nào dây xích, và được bao
quanh bởi những biển thông báo đe dọa đủ mọi kiểu tra tấn, bỏ tù và giết
chết đối với tất cả những ai dám động tay chèo trên dòng nước ở đó; tôi tự
hỏi tại sao những tay quê mùa ven sông này không tuyên bố chủ quyền với
cả không khí ở phía trên sông luôn và đe dọa bất kỳ ai thở không khí ấy đều
phải trả bốn mươi xu - nhưng có thể tránh đám cọc và dây xích ấy một cách
dễ dàng với một chút kỹ năng; còn về biển thông báo, nếu có thừa năm phút
và quanh đấy không có ai thì cứ việc nhổ vài ba cái lên mà vứt xuống sông.