với bọn hắn từ đủ mọi hướng. Ba lần bọn hắn tìm cách cho thuyền quay lại
qua nhịp cầu, cũng là ba lần bọn hắn bị mắc ở bên dưới nó, và mỗi lần
“người điều khiển thuyền” ngẩng lên nhìn thấy cây cầu ở trên đầu, anh ta lại
tuôn ra những cơn thổn thức mới.
George bảo rằng buổi chiều hôm đó hắn gần như không thể nghĩ rằng có
khi nào đó mình lại có thể thật sự thích đi chơi thuyền.
Harris thì quen chèo trên biển hơn trên sông và nói rằng nếu coi đó là
một môn thể dục thì hắn thích thế hơn. Tôi thì không. Tôi nhớ hè năm ngoái
đã chèo một con thuyền nhỏ trên Eastbourne: trước đây tôi đi thuyền trên
biển nhiều rồi, và tôi nghĩ sẽ ổn thôi; nhưng hóa ra tôi đã quên sạch nghệ
thuật chèo rồi. Khi một mái chèo vục sâu dưới làn nước, mái chèo kia sẽ
khua khoắng loạn xạ trong không khí. Để cả hai mái chèo rẽ nước đi cùng
lúc, tôi phải đứng lên. Khu phố này đông đặc những con người thanh lịch
cao quý, và tôi phải chèo qua họ trong cái bộ dạng nực cười này. Đi được
nửa đường thì tôi cho thuyền lên bờ nhờ một bác chài già đưa về.
Tôi thích ngắm một bác chài già chèo thuyền, nhất là những người được
thuê theo giờ. Trong cách chèo của họ có một vẻ bình tĩnh thư thái thật đẹp.
Nó như hoàn toàn thoát khỏi sự vội vã bực bội, sự vật lộn kịch liệt mà càng
ngày càng trở thành tai ương của cuộc sống thế kỷ mười chín. Bác chài
không cố sức vượt qua thuyền khác. Nếu bị thuyền nào bắt kịp và vượt qua,
bác không bận lòng; và thực tế là các thuyền khác đều bắt kịp và vượt qua
bác - tất cả những thuyền đi cùng hướng với bác. Với một số người thì
chuyện này hẳn đã gây ra khó chịu bực mình rồi; sự thư thái siêu phàm của
bác chèo thuyền thuê dưới thử thách này cho chúng ta một bài học tuyệt đẹp
về việc chống lại tham vọng và bon chen.
Chèo thuyền hợp rơ không phải một nghệ thuật quá khó đạt được,
nhưng nó đòi hỏi một anh chàng phải thực hành kha khá thì mới có thể cảm
thấy thoải mái khi chèo trước mắt phụ nữ. Đó là “thời điểm” làm một thanh
niên lo lắng. “Vui thật đấy,” cậu ta nói trong khi gỡ mái chèo của mình ra