biểu diễn thì có lẽ nó sẽ không buồn thảm như thế nữa. Tuy nhiên cảm giác
của đa số chúng tôi là phản đối thử nghiệm này.
Chẳng còn gì để làm nữa, chúng tôi bèn đi ngủ - tức là, chúng tôi cởi
quần áo và nằm trằn trọc ở đáy thuyền khoảng ba hay bốn tiếng đồng hồ gì
đấy. Sau đó chúng tôi cũng chập chờn ngủ được chút ít cho đến năm giờ thì
tất cả đều dậy ăn sáng.
Ngày thứ hai cũng y như ngày thứ nhất. Mưa tiếp tục trút xuống, và
chúng tôi ngồi quấn mình trong chiếc áo mưa, dưới lớp bạt, và chậm chạp
trôi theo dòng nước.
Một trong số chúng tôi - bây giờ tôi đã quên mất là ai, nhưng tôi cứ
muốn nghĩ chính là mình - suốt sáng hôm đó đã có vài nỗ lực yếu ớt để
khơi lên sự ngốc nghếch của gã du mục hôm trước về việc là con cái của
Thiên nhiên và thích sự ẩm ướt; nhưng nó không hề được hưởng ứng.
Chuyện...
Tôi không thèm quan tâm đến
cơn mưa, không đâu!
đã hiển nhiên một cách đau đớn, dựa vào biểu hiện tình cảm của mỗi
chúng tôi, đến mức chẳng cần phải hát câu ấy lên.
Tất cả chúng tôi đều nhất trí ở một điểm, đó là dù có gì xảy ra đi nữa thì
chúng tôi vẫn sẽ đi đến cùng chuyện này. Chúng tôi đã lên đường để được
tận hưởng hai tuần trên sông nước, và việc tận hưởng hai tuần trên sông
nước chính là điều chúng tôi phải làm. Cho dù nó có giết chết chúng tôi! -
ôi chao, như thế sẽ là một điều đáng buồn đối với bạn bè thân thích của
chúng tôi, nhưng chẳng thể nào khác được. Chúng tôi cảm thấy nếu nhượng
bộ thời tiết trong điều kiện mưa gió như chúng tôi đang gặp phải sẽ là tiền
lệ thảm họa nhất.
“Chỉ còn hai ngày nữa thôi,” Harris nói, “và chúng ta đều còn trẻ trung
khỏe mạnh. Xét cho cùng rồi chúng ta sẽ qua được thôi.”